Ngày Xuân, Với Bài Thơ "Ông Đồ" Của Vũ Đ́nh Liên
by "irene1975us@Jun 30, 2006 at 10:09 PM
Trích Tạp Chí Cách Mạng Số 52 Của Đại Việt Cách Mạng
Đảng
www.daiviet.org
Ngày Xuân, Với Bài Thơ "Ông Đồ" Của Vũ Đ́nh Liên
Lê Chánh Thiêm
LTS: Xin giới thiệu với bạn đọc bài viết về khía cạnh
chính trị liên quan đến nhà thơ Vũ Đ́nh Liên để thấy
mặt trái cuộc đời của một nhà thơ.
Người Việt nam yêu văn thơ không ai lại không biết bài
thơ "Ông Đồ" của Vũ Đ́nh Liên. Bài thơ này đă
được các sách, báo xưa nay từ trong nước đến hải
ngoại cho đăng lại nhiều lần, nhất là mỗi độ Xuân
về. Văn điệu, âm vận, thể loại và nội dung của bài
thơ có một giá-trị nên từ trước đến nay được nhiều
giới, nhiều người tán thưởng. Nó xuất hiện trong
nhiều thư phẩm, lưu-truyền trong dân gian một cách
phổ-quát, ngay cả nhiều người chưa từng được đến
trường một ngày nào cũng thuộc. Bài thơ Ông Đồ
"đầu tiên" của Vũ Đ́nh Liên như sau:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người quạ
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng baỵ
Nhưng mỗi năm một vắng
Người thuê viết nay đâủ
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầụ
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi baỵ
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Bài thơ được nhiều ngươi thuộc ḷng nhưng thường ít
rơ về thân-thế tác-giả cùng hoàn-cảnh bài thơ được
sáng tác. Trong pha.m-vi bài nầy, người viết chỉ
sơ-lược qua hai điểm trên nhưng đề-cập đến những
bài thơ Ông đồ do Vũ Đ́nh Liên sáng-tác sau nầy, những
bài thơ mà tác-giả gọi là ông đồ mới để chúng ta
biết rơ hơn về con người của tác-giả. Ngoài ra, nhân
đây cũng nêu lên vài điểm liên-quan đến chiến dịch
Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, c̣n được gọi là vụ
"Nhân Văn Giai-phẩm" như một giai-thoại văn-chương và
chính-trị v́ có liên-quan đến các nhà văn miền Bắc
thời bấy giờ.
1. Sơ lược thân-thế tác-giả:
Vũ Đ́nh Liên sinh ngày 12-11-1913 tại phố Hàng Bạc,
Hà-Nội. Hoc xong bậc Tiểu-học tại trường phố hàng Vôi,
sau khi đậu Tú-Tài ở Collège du Protectorat (trường
Trung-học Bảo-hộ, ở Thu.y-Khê, tục danh là làng Bưởi nên
c̣n gọi là trường Bưởi, sau này đổi thành Chu-Văn-An),
ông ghi danh học trường Luật ở Hà-Nội một thời-gian
nhưng rồi bỏ ngang để đi dạy tư và tham-gia vào làng báọ
Bài thơ "Ông đồ" được đăng lần đầu tiên trên
báo Tinh-Hoa xuất-bản ở Hà-Nội số Xuân Đinh Sửu 1937.
Tuần báo Tinh Hoa xuất-bản vào ngày Thứ Bảy, do ông Đoàn
Phú Tứ làm Chủ-nhiệm và Vũ Đ́nh Liên làm chủ bút kiêm
quản-lư.
Ông Đoàn Phú Tứ sinh ngày 10/9/1910 tại Hà-Nội, đậu
Tú-Tài Pháp, là nhà thơ và nhà soạn kịch; ông lập đoàn
kịch Tinh-Hoa. Ông mất năm 1989. Tinh Hoa phát-hành số
đầu vào ngày 13-3-1937, ra được 13 số th́ đ́nh bản vào
tháng 7-1937. Sau khi Tinh Hoa đ́nh bản, Vũ Đ́nh Liên
chủ-trương tuần báo chuyên về giáođục Revue Pédagorique
nhưng không được mấy số cũng đ́nh bản. Đến năm 1940,
ông làm Tham-tá sở Thương-Chính Bắc-Kỳ. Sau tháng 8-1945,
ông bỏ ngành và về dạy học. Năm 1946, họ Vũ tham-gia
kháng-chiến trong Hội Văn-nghệ Cứu quốc Liên-khu 3,
gia-nhập Đảng Cô.ng-sản vào năm 1951, sau đó dạy học và
biên soạn sách cho chế độ Hà-Nội.
2. Xuất xứ bài thơ và sự nghiệp thơ của tác-giả.
Bài thơ ra đời trong những ngày áp Tết Đinh-Sửu (tháng
2-1937). Một hôm Vũ dạo chợ Tết, đi ngang qua đền
Ngo.c-Sơn, thấy mấy ông đồ trải chiếu bên vệ đường
để "bán chữ thánh-hiền" mong được "chút dư
lộc", kiếm tí tiền tiêu Tết, vào lúc mà xă-hội đă
"vứt bút lông đi, giắt bút ch́". Nơi đây, Vũ chứng
kiến cái cảnh "khách" không c̣n tha-thiết đến chuyện
trang hoàng nhà cửa với những câu đối, bức hoành, bức
phi như những ngày Nho học c̣n thi.nh-hành nữa cho nên
không-khí vắng-vẻ bao trùm quanh các ông đồ. Đêm về,
Vũ sáng tác bài thơ này nhưng không đăng lên báo,
thời-gian sau mới đăng trên báo Tinh-Hoa.
Ngoài mấy bài thơ đăng trên Tinh-Hoa, Vũ đ́nh Liên c̣n có
ít bài đăng trên tờ Phong-Hóa; tuần báo Phu.-nữ Thời
đàm (Journal pour les Femmes et les Jeunnes Filles, do Nguyễn Thị
Đa làm chủ-nhiệm, số ra mắt ngày 17-9-1933, được 26 số
th́ đ́nh bản vào 5-6-1934) và tuần báo trào-phúng Loa (ra
ngày thứ Năm hàng tuần, xuất-bản tại Hà-Nội, do Phan
Trần Chúc làm quản-lư, số đầu tiên phát-hành vào
8-2-1934; được 103 số th́ đóng cửa vào tháng 2-1936).
Số lượng thơ của Vũ Đ́nh Liên sáng-tác không quá 25
bài. Ngoài ra ông c̣n dịch thơ cổ điển và câ.n đa.i của
Pháp, soạn vở kịch "Nàng Mỵ-Ê" nhưng không được mấy
người biết đến v́ không hay. Khi ông Vũ Trọng Phụng,
một bạn học của ông qua đời, Vũ điếu bạn ḿnh bằng
mấy câu thơ:
Thiên cổ văn hào anh Phụng ơi!
Ai hơn anh tha thiết t́nh người
Một thân mang cả muôn vàn nghiệp
Một phận đội chung vạn ức đờị
Bài thơ đầu tiên của Vũ Đ́nh Liên là bài "Đứa trẻ
ăn mày" được đăng trên tuần báo Phu.-Nữ Thời đàm,
bài thơ không có ǵ xuất-sắc nên không được nhắc
đến. Riêng bài "Ông Đồ" có được một chỗ đứng
trên văn đàn Viê.t-Nam thời bấy giờ. Trong cuốn Thi Nhân
Viê.t-Nam xuất-bản tại Huế vào năm 1941, hai ông Hoài-Thanh
(Nguyễn Đức Nguyên) và Hoài-Chân (Nguyễn Đức Phiên)
nhận xét:
- "Vũ đ́nh Liên đă để lại cho chúng ta một bài thơ
kiệt tác: Ông Đồ. Ông đồ mỗi năm đến mùa hoa đào
lại ngồi thuê viết bên đường phố. Ông chính là cái
di-tích tiều-tụy đáng thương của một thời tàn. Ít khi
có một bài thơ b́nhđị mà cảm động như vậy. Tôi
tưởng như đọc lời sám-hối của cả bọn thanh-niên chúng
ta đối với lớp người đương đi về cơi chết. Đă
lâu lắm chúng ta chỉ xúm nhau lại chếđiễu họ quê mùa,
ma.t-sát họ hủ-lậu. Cái cảnh thương-tâm của nền Nho học
lúc mạt vận chúng ta vô t́nh không lưu ư. Trong bọn chúng
ta vẫn có một hai người ca-tụng đạo Nho và các nhà nho.
Nhưng chếđiễu ma.t-sát không nên mà ca-tụng cũng không
được. Phần đông các nhà nho c̣n sót lại chỉ đáng
thương. Theo đuổi nghề văn mà làm được một bài thơ
như thế cũng đủ. Nghĩa là đủ để lưu danh, đủ với
người đời".
Ông Hoài Thanh c̣n cho biết hai nguồn thi cảm chính để Vũ
Đ́nh Liên sáng tác bài thơ nầy là "ḷng thương người
và ḷng hoài cổ". Khi nêu ra nhận xét nầy, khi đó, cả
Hoài-Thanh lẫn Vũ đ́nh-Liên là những văn nhân tâm-hồn
chưa bị nhuộm đỏ bởi chủ-nghĩa Cô.ng-sản. Người làm
thơ, tư-tưởng c̣n trong trắng nên hồn thơ có t́nh
người; người phê-b́nh, tâm-hồn c̣n vô tư, c̣n nhận
được cái hay cái dỡ nên những lời b́nh phẩm c̣n công
chính, c̣n giá-trị.
Bài thơ trên được ông Fourniau dịch sang Pháp Văn và
được Lư-Viê.tĐũng dịch sang Hán văn với tựa "Lăo Tú
Tài" như sau:
Mỗi niên đào hoa khai,
Tổng kiến lăo Tú tài
Truy nghiễn hồng tiên băi
Thông cù nhân văng laị
Đa thiểu thị tự dă
Trách trách tiễn chu kỳ
Xảo bút nhất huy tựu
Như phụng vũ long phị
Lănh lạc niên phục niên
Cô khách hà mang nhiên?
Hồng tiên bi sắc thâm
Truy nghiễn sầu mặc kiên.
Tú tại do tại ty
Quá lộ hữu thùy tri
Tiên thượng hoàng diệp lạc
Thiên biến tế vũ phị
Kim niên đào hựu tân
Bất kiến cựu thời thân
Trù tướng không hàng vọng,
Cổ hồn hà quy vân?
3. Những bài "Ông đồ mới" của Vũ đ́nh-Liên
Sau khi gia-nhập vào Đảng Cô.ng-sản Viê.t-Nam (1951), Vũ
Đ́nh Liên biến thành một con người khác. Ông đă đem
thân phu.c-vu. cho chính quyền nên t́nh-cảm cũng thay đổi,
trái tim ông không c̣n biết rung động, không c̣n tấm ḷng
thương người như thuở nào ông đă "cảm" cái mạt vận
của Nho học qua h́nh-ảnh những ông đồ nữa. Được
hưởng "ơn mưa móc" của chế độ, những năm sau này,
trong vài dịp Xuân về, Vũ Đ́nh Liên sáng tác vài bài thơ
với dạng điệu bài thơ Ông Đồ của thuở nào nhưng nội
dung khác hẵn, được ông gọi là "ông đồ hiê.n đa.i",
"ông đồ mới".
Những bài thơ sau này kém hẵn so với bài đầu, ư tứ
nghèo-nàn, lời lẽ kém tao-nhă, âm điệu không có hồn,
thiếu chất thơ, đă làm cho người đọc không c̣n dành cho
ông sự cảm mến như thuở nào nữa nếu không nói là
đáng chê trách; khinh thường tư cách của ông. Bài thơ
ông làm trong dịp Xuân GiápĐần năm 1974 có tên:
Thủy Chung.
Năm nay đào lại nở
Chật đường chợ hàng hoa
Từ đáy sâu quá khứ
Ông đồ lại hiện ra
Sáng nay trời sớm tạnh
Nắng nằm trên giấy hồng
Một đám người ngồi cạnh
Có nhà thơ ngồi cùng
Tôi xin đôi câu đối
Cụ rọc tờ giấy điều
Bàn tay xưa viết nổi
Những nét chữ thân yêụ
Bài thơ "ông đồ" mới
Dưới bút cụ nổ ra
Tôi chân thành chép lại
Đánh dấu một mùa hoa...
Chỉ thêm lời ghi chú
Vần thơ xưa, thơ nay
Thủy chung một ḷng cũ
Dù vui buồn đổi thaỵ
Với 23 tuổi đảng, Vũ Đ́nh Liên đă ca tụng đảng ḿnh
bằng những lời lẽ nịnh bợ, tâng bốc rẻ tiền để nói
lên ḷng thủy-chung, một dạ một ḷng của ḿnh với đảng.
Trong lúc một nửa đất nước rơi vào cảnh nghèo-khổ
đói rách, chính-quyền đă ḅn vét tất cả của-cải
dân-chúng để cung-ứng cho chiến-trường miền Nam mà
chính bọn chúng xua quân vào ḥng chiếm nốt; trong lúc một
phần quê-hương đang ch́m đắm trong tang-tóc v́
chiến-tranh do chính chế độ mà ông phu.c-vu. gây ra nhưng
ông nói hoa đào lại nở "chật đường", phải chăng là
những lời dối trá trơ-trẽn? Họ Vũ chép lại để đánh
dấu một mùa hoa, phải chăng là "mùa hoa đi.a-ngu.c?".
Tiếp đến, sau khi thôn-tính toàn miền Nam, chính-quyền
Hà-Nội đă ápđụng không biết bao nhiêu chính-sách thô
bạo, tàn độc, dă-man trên vùng đất họ vừa cưỡng
chiếm. Những chính-sách này đă đưa mấy trăm ngàn
người vào các "đia-ngục trần-gian" (trại tù), đă
đuổi bao nhiêu gia đ́nh lên rừng sâu nước độc
(kinh-tế mới), chiếm đoạt tài-sản của nhânđân (đánh
tư-sản ma.i-bản), bóc-lột sức lực thế-hệ thanh-niên
(thanh-niên xung-phong), xua thanh-niên vào cơi chết trên đất
Campuchia để thư.c-hiện ư đồ ngông-cuồng mà họ mệnh
danh là "nghĩa-vụ quốc-tế". Kết quả như chúng ta đă
thấy, một miền Nam nói riêng và một nước Viê.t-Nam nói
chung đă gánh chịu cảnh tiêu điều, tang-thương, đau khổ,
la.c-hậu, nghèo đói, dốt nát, bước những bước thụt
lùi thật dài.
Vũ Đ́nh Liên, kẻ đă biến thành một văn nô, đă coi
những thảm cảnh đó của dân-tộc là "nguồn ha.nh-phúc
mới", đă ca-ngợi "như cả ngàn mùa Xuân" trong bài
thơ mang tên "Ha.nh-phúc" được ông sáng-tác vào Tết
Đinh-Tỵ 1977:
Năm nay đào nở rộ
Mừng Hội Đảng, Hội Dân
Bút ông đồ lại hoa
Những nét chữ đẹp, thân
Cờ biển ngập phố phường
Cành đào bay thắm đỏ
Như cả ngàn mùa Xuân
Nở hoa trên mỗi chữ
Thấy trong ḷng say sưa
Dừng chân không muốn bước
Nghe đọc những vần thơ
Ngợi khen những nét bút
Xuân Cộng ḥa Xă hội
Mai, đào tươi thắm hoa
Một nguồn hạnh phúc mới
Trào ngọn bút ḍng thợ
Nguồn ha.nh-phúc mà Vũ Đ́nh Liên ca tụng được trưng bày
bằng những "cờ biển ngập phố phường", chỉ là
những lá cờ máu Cô.ng-sản, như Trần Dần diễn tả trong
bài thơ "Nhất định thắng" có đoạn:
"Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ".
Vũ Đ́nh Liên ca tụng cờ đỏ th́ được chế độ Cộng
sản Bắc Việt để yên, Trần Dần nói lên "màu cờ
đỏ" th́ bị bắt giam, bị khủng-bố đến nỗi ông đă
phải cứa cổ tự tử trong nhà tù CS, điều nầy cho chúng
ta thấy hai kết-quả khác nhau trong cùng một việc diễn tả
màu cờ của chế đô..
Đến mùa Xuân Nhâm-Tuất 1982, Vũ Đ́nh Liên lại tâng bốc
chế độ đă làm đất nước Viê.t-Nam điêu tàn, nghèo
khổ sau sau 7 năm chúng rêu-rao "chiến thắng,
thống-nhất, tiến nhanh tiến mạnh..." với những lời
thơ trong bài: "Nhân nghĩa".
Mỗi năm hoa đào nở,
Lại thấy bóng ông đồ,
Bày mực tàu giấy đỏ
Ngồi đúng chỗ ngồi xưa
Trải trăm ngàn dâu bể
Giấy mực màu không phai
Chữ nhân và chữ nghĩa
Vẫn những nét thẳng ngay
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Khăn áo bạc màu dưa
Nhắc cho người qua thấy
Lẽ nhân đạo thiên cợ
Cách mạng là nhân nghĩa
Ông đồ là thi thư
Chữ tuôn ḍng thiện mỹ
Từ ng̣i bút ông đồ
Cuộc "cách-mạng nhân-nghĩa" của họ Vũ đă làm biết bao
nhiêu gia đ́nh tan nát, đă đưa đất-nước vào cảnh suy
đồi trên tất cả mọi mặt, đă đưa biết bao nhiêu
người phải bỏ nước ra đi bất chấp hiểm nguy nơi biển
cả, phó mặc cho sóng gió, cho hải tặc, đem thân làm kẻ kẻ
lưu-vong. Chung quanh Vũ, bao nhiêu người dân đói rét,
lầm-than, đói khổ trong một xă-hội được xem là một
"nhà tù lớn" ngoài không biết bao nhiêu "trại tù
nhỏ" chạy dài từ Bắc chí Nam đang giam giữ những quân
cán chính miền Nam Viê.t-nam và những người bất đồng
chính-kiến, Vũ Đ́nh Liên không biết hay sao?
"Nhân-nghĩa" hay "phi nhân-nghĩa", chắc mọi người
dân Viê.t-nam đều rơ, ngoài Vũ đ́nh Liên và tâ.p đoàn
cai-tri..
Vài năm sau, cũng trong một dịp Tết, đầu óc bệnh hoạn
của Vũ Đ́nh Liên đă lại cho ra một quái thai mới với
những lời tâng-bốc trơ-trẻn, lố-bịch, cùng lối nịnh
hót rẻ tiền trong bài thơ mang tên: "Mùa Xuân
Cô.ng-sản".
Một cây đào muôn thuở
Năm bốn mùa nở hoa
Một ông đồ bất tử
Tay với bút không già.
Hoa tươi màu sông núi
Chữ thắm t́nh quê hương
Cành đào và câu đối
Ngàn đời Tết Việt nam.
Nghiên bút xưa vẫn đợi
Tự ngàn năm bài thơ
Từ ngàn năm câu đối
Đảng sáng tác bây giờ.
Nghệ sĩ với ông đồ
T́nh nước non vô tận
Như Đảng với bác Hồ
Hương đất trời Cộng sản.
Năm năm đào lại nở
Vui người mới, hồn xưa
Một mùa Xuân bất tử
Tươi nét lụa, lời ca
Vũ Đ́nh Liên chúc tụng chế độ bạo tàn nhất lịch sử
đất Việt được "muôn thuở", "bất tử", "ngàn
đời", "vô tận"; Vũ mong ước "hoa" nở bốn mùa
trên đất nước mà dân chúng đang rên xiết dưới ách
cai-trị phi nhân của chế độ mà Vũ thờ phụng. Một nhà
văn, một nhà giáo, một người có học, có nhận thức, có
mắt thấy tai nghe, có suy-nghĩ nhưng lại dùng ng̣i bút của
ḿnh để đề cao cho chế độ xấu-xa, tàn-bạo nhất với
những lời lẽ trơ trẻn, vô liêm sỉ như họ Vũ là không
thể chấp nhận được cho dù ông được chính-quyền Hà
Nội tặng ông danh-hiệu "Nhà giáo nhânđân" vào năm
1990.
Từ khi là một đảng viên Cô.ng-sản, Vũ đă đánh mất
giá-trị của bài thơ "Ông Đồ 1937", đánh mất niềm
thương mến của những người yêu bài thơ đó, đánh mất
luôn bạn bè đă từng yêu mến ông. Đó là h́nh phạt
xứng đáng nhất dành cho ông và cũng là bài học cho bọn
đón gió trở cờ, bọn mưu cầu lơ.i-ích cá-nhân mà quên
đi lẽ thật.
4. Văn nghệ sĩ miền Bắc và chiến dịch "Trăm hoa đua
nở".
Ngoài Vũ Đ́nh Liên, chúng ta thấy c̣n có nhiều văn nghệ
sĩ khác cũng đem thân khuyển mă phục vụ cho chế độ
Cô.ng-sản hà-khắc, tàn bạo, chế độ đă đưa dân-tộc
Viê.t-nam vào chỗ nghèo đói, la.c-hậu. Trừ Tố-Hữu,
"một vua của hạng bồi bút", một văn nô của chế độ
với những lời thơ sắt máu mà ai ai cũng biết ra, c̣n có
nhiều tên bồi bút tên tuổi khác như Hoài Thanh, Lưu Trọng
Lư, Hoàng Xuân Nhị, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân (1),
Nguyên Hồng, XuânĐiệu, Huy-Cận, Chế Lan Viên (2).
Điển h́nh, ta hăy nghe những lời Xuân Diệu, người cũng
được liệt vào ngang hàng với Tố Hữu, vua bồi bút.
Với "lănh tụ", ông ta nịnh hót trơ-trẽn:
"Mỗi lần tranh đấu gay go
Chúng con lại được Bác Hồ tới thăm
Nghe lời Bác dạy khuyên răn
Chúng con ước muốn theo chân của người".
Với nhânđân, ông lớn tiếng ḥ hét:
"Thắp đuốc cho sáng khắp đường,
Thắp đuốc cho sáng đ́nh làng đêm naỵ
Lôi cổ bọn nó ra đây,
Bắt quỳ gục xuống, đo.a đày chết thôi".
Với đảng, giọng ông nỉ-non thề thốt:
"Chúng con thề nguyện một lời,
Quyết tâm thành khẩn ... lột người từ đây".
và:
"Mẹ xưa chăm cháo, chăm cơm,
Đảng nay nuôi nấng c̣n hơn mẹ hiền.
Bệnh từ đời cũ liên miên,
Đảng trong thức ngủ chăm liền sớm hôm.."
(Trước đây bốn tháng - 1953)
Riêng Huy Cận, ta hăy nghe những lời nịnh bợ, suy tôn
"lănh tụ" để kiếm một chỗ ngồi trong xă-hội:
"Hồn lạc chưa thờ riêng một chúa
Yêu một người ta dâng trọn t́nh thương".
Trong đám tay sai, bồi bút này, có kẻ nhiệt t́nh, cam tâm
đem thân "khuyển mă", làm tay sai, có người v́ sợ
chết do hèn nhát; có người muốn bám vào chế độ để
được vinh thân ph́ gia, muốn có chút quyền lực. Chính
số văn-nghệ sĩ nầy đă là nanh vuốt, là tay sai cho
Cô.ng-sản để tiêu diệt thành-phần đối kháng, những
người chuộng tư.đo, yêu ḥa-b́nh, trọng lẽ phải, quyết
bảo vệ quyền sống con người mà đa.iđiện là giới
văn-nghê.-sĩ trong phong-trào Nhân văn giai-phẩm vào thập
niên 1960 tại miền Bắc.
Và sau khi Cô.ng-sản thôn tính miền Nam, một số văn
nghê.-sĩ tên tuổi miền Nam cũng đón gió trở cờ, cũng
dùng ng̣i bút của ḿnh "bợ đỡ" chế độ mới để
mong có chút bổng lộc, không chịu thua bọn bồi bút miền
Bắc. Bọn này đă quên đi vùng đất đă cưu mang họ, quên
đi những người đă một thời yêu mến những ǵ chúng=EF
đă sáng-tác, quay mặt với những người bạn cùng giới
với chúng đă bị chế độ mới đưa vào các trại tù khổ
sai. H́nh phạt mà xă-hội dành cho bọn chúng là bị người
đời khinh khi, ma.-ly., bị mọi người ngoảnh mặt làm ngơ
khi gặp mặt và họ đă dùng ng̣i bút để đánh lại
chúng. Một câu chuyện "tiếu lâm chính-trị thời
đại", một giai-thoại về "sự đời" được
truyền-tụng để "dạy" cho Sơn Nam (tên thật là Phạm
Minh Tài, quê quán: Ra.ch-Giá, Kiên-Giang), một nhà văn
thuộc hạng trở cờ nói trên một bài học khi Sơn Nam nịnh
bợ, ton hót, chỉ điểm cho chế độ mới và sau khi ông ta
viết bài "Thằng Thiệu nó tồi" như sau:
-"Có một anh chàng nọ bỏ vùng kinh-tế-mới về thành Hồ
kiếm việc làm để sống. Sau một thời-gian t́m việc
nhưng chưa có, anh ta bèn nhờ người quen giới thiệu đến
sở thú xin việc, gặp "thủ trưởng" cho biết "hiện
chúng tôi đang cần người để làm việc, chẳng cần
chuyên-môn nhưng phải nhanh-nhẹn một chút". Thanh-niên nọ
hỏi việc ǵ, được tên nầy cho biết: "Có một con khỉ
đột mới chết. Trong lúc nầy nhà nước ta c̣n khó khăn
nên không mua được con khác để thay thế, nếu để
chuồng trống, bọn Ngụy, bọn phản động, bọn đế-quốc sẽ
tuyên-truyền là cách-mạng để thú chết đói; chúng tôi
đă có một bộ da khỉ đột rồi, anh chỉ việc giả làm
khỉ. Ngoài việc đi tới đi lui, cũng cần phải biết leo
cây hay nhào lộn, phải làm tṛ khỉ nữa mới được".
Thanh-niên nọ nhận lời. Mấy hôm đầu th́ mọi chuyện êm
xuôi. Đến một sáng Chúa-nhật có đông khách xem, "con
khỉ giả" làm tṛ hơi nhiều mà bụng th́ trống không nên
trong lúc nhào lộn trên cây, anh ta hụt tay rơi sang chuồng
sư-tử bên cạnh. Thấy con sư-tử gầm gừ bước tới, con
khỉ giả điếng hồn, co rúm chờ chết. Lạ thay, khi con
sư-tử tới gần, nó phát ra tiếng người: "Đừng sợ.
Tao cũng như chú mầy thôi, đây là "sở người" chứ
không phải sở thú đâu".
Con sư-tử già đó chính là tên trở cờ họ Phạm. Từ đó
về sau, Sơn-Nam không c̣n dám ra mặt nịnh hót bọn cán-bộ
từ rừng rú xuống thành phố trước mặt mọi người như
trước nữa. Mọi người quen thân không ai dám gần, kẻ
biết không ai tiếp chuyện. H́nh phạt dành cho ông ta như
thế cũng xứng đáng.
Những bọn bồi bút, bọn đón gió trở cờ, bọn thời cơ,
bọn theo đóm ăn tàn bị ba.n-bè xa lánh, những người biết
chuyện khinh-bỉ, dân chúng căm-hờn và nhất là có ngày
nào đó họ cũng sẽ "bị rơi vào chuồng sư-tử thiệt",
chừng đó ăn-năn th́ đă muộn.
Điều đáng nói hơn nữa là nơi hải ngoại, một số
văn-nghê.-sĩ rời bỏ Viê.t-nam với danh-nghĩa "người
ty.-na.n Cô.ng-sản" cũng đă cam-tâm nối giáo cho giặc
Cộng bằng ng̣i bút của ḿnh trên đất tư.đo. Một trong
số nầy là Nhật Tiến, người đă viết "Thềm Hoang",
cuốn sách đă đoạt giải thưởng văn-học toàn quốc do
chính-phủ VNCH trao tặng. Tại quê nhà, muốn nói lên sự
thật, người viết không dám nói lên sự thật v́ sợ bị
tù đày, cấm cản, như lời Nguyễn Minh Châu: "Cái sợ làm
cho người ta hèn... Nhà văn phải rào đón, dựng lên bao
nhiêu là lớp phên che rồi mới dám viết!" th́ tại hải
ngoại, hạng người như Nhật Tiến lại cam tâm làm tay-sai
cho Cô.ng-sản để thành văn nô, bồi bút th́ thật đáng
khinh-bỉ, đáng nguyền rủạ
Người viết nhớ lại trong QLVNCH trước năm 1975, khi chê
bai, khi đề-cập đến hạng người nịnh bợ thượng cấp,
người ta thường dùng từ-ngữ "nâng bi" để ghép cho.
Danh từ tượng thanh, tượng h́nh nầy thật đă.c-sắc,
mang ư nghĩa chê-bai nhưng chưa xứng cho hạng người nêu
trên v́ ngoài việc nịnh bợ chính-quyền, lănh tụ,
cán-bộ, họ c̣n hại người khác, có khi nguy hại đến
cuộc sống, lắm lúc lâm nguy cả tính-ma.ng.
Trở lại với thành-phần văn-nghệ sĩ trong nước tại
miền Bắc, ngoài một số trí thức ôm chân chế độ bạo
tàn, con số những trí thức miền Bắc nổi dậy chống
chế độ Cô.ng-sản cũng không ít. Vụ án Nhân văn
giai-phẩm (c̣n gọi là chiếnđịch "trăm hoa đua nở")
một thời đă làm cho Cô.ng-sản phải dùng mọi thủ đoạn
đê-hèn để bảo-tồn chế độ tàn trị. Những nhà văn
phản-kháng trong vụ này, ngoài nhà văn lăo thành Phan Khôi
c̣n có Trần Dần, Phùng Quán (3), Tạ Hữu Thiện, Bùi Quang
Đoài, Phùng Cung, Trần Lê Văn, Hoàng Tích Linh, Trần Duy,
Hoàng Cầm, Hữu Loan, Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, ...
Những người nầy đă dùng ng̣i bút của ḿnh nói lên
những điều bất công, những tàn-bạo, vạch rơ những cái
ngu dốt của Cô.ng-sản nên đă bị đàn áp bằng nhiều
thủ đoạn, ngay cả cái chết. Ngoài ra, một số khác đă
"gác bút" đến cuối đời khi họ bị chế độ
Cô.ng-sản khủng-bố, kiềm kẹp hay thấy người khác bị
bách hại; ta có thể kể như Thế Lữ (4), Tô Hoài (5)...
"Trăm hoa đua nở" dịch từ câu chữ Hán "Bách hoa tề
phóng, bách hoa tranh minh" (trăm hoa đua nở, trăm nhà đua
tiếng) do một học giả đời Hán đặt ra để vừa ca tụng
vừa tỏ ư luyến tiếc nền văn-học toàn thịnh của Tàu
thời Đông Châu (thế-kỷ thứ 6 đến thế-kỷ thứ 3
trước CN), chấm dứt vào năm 213 trước CN khi Tần Thủy
Hoàng nghe theo lời Thươ.ng-thư Lư Tư đốt hết sách vở
và chôn sống 460 nhà đối lập. Các văn học sĩ phản
kháng nầy đă dùng các báo: Văn, Nhân Văn, Giai phẩm,
Đất Mới, ... như những mặt trận để chống lại Đảng
CS; có lúc lan dần sang các báo của Đảng như Thời Mới,
Cứu Quốc, Học Tập, Nhân Dân.
Vụ án Nhân văn giai phẩm kết thúc, hiển-nhiên phần
thắng về phía chế độ Cô.ng-Sản tàn bạo, độc tài.
Chúng đă dùng mọi thủ đoạn đê-hèn nhất để đàn-áp và
cũng chính hành động bỉ-ổi nầy cho chúng ta thấy cái
xấu xa của CS tàn-bạo nên đă bị chống đối đến cùng,
bằng mọi giá, ngay cả việc dùng ng̣i bút. Họ sống nếu
không ở trong các trại tù th́ sống trong đe dọa, bị
theođơi thường xuyên, thường bị chính-quyền kết án
phản động.
Ta hăy nghe cụ Phan Khôi, với những lời than-văn:
-"Thật là cái tội phản động ở xứ nầy sao mà ghép
một cách dễ dàng quá!"
-"Nhược bằng bắt mọi người phải viết theo lối của
ḿnh, th́ rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa cúc
đều phải nở ra cúc vạn thọ hết"
-"Cụ Đồ Chiểu ơi! Cụ Đồ Chiểu ơi! Ở thời cụ, cụ
đă kêu:
Ở đây nào phải trường thi,
Ra đề hạn vận một khi buộc ràng!
thế mà ngày nay, bảy tám mươi năm sau cụ, người ta c̣n
làm ăn ǵ được nữa cụ ơi! Tôi đâu c̣n là tôi đâu
được nữa cụ ơi!!"
Những văn nghệ sĩ phản kháng nầy đă dùng ng̣i bút để
nói lên nỗi ḷng bất-măn, chống đối chế độ
Cô.ng-sản. Ta hăy nghe cụ Phan Khôi (6) mỉa-mai một giống
cỏ tại miền Bắc, được ông gọi là "cỏ cụ Hồ",
"cây Cô.ng-sản" như sau:
-"Có một thứ thực vật cũng như sen Nhật Bản ở xứ
ta, trước kia không có mà bây giờ có rất nhiều. Đâu
th́ tôi chưa thấy, chỉ thấy ở Việt Bắc không chỗ nào
không có".
Theo Cụ, có nơi gọi loại cỏ trên là "cỏ bù xít" hoặc
"cây cức lợn" hoặc "cây chó đẻ". Ông nói rằng
những tên đó "đều không nhă tí nào, người có học
không gọi như vậy mà gọi là cây cộng sản".
-"Không mấy lâu rồi nó mọc đầy cả đồn điền, trừ
khử không hết được, nó lan tràn ra ngoài đồn
điền". Cỏ ấy bắt đầu có từ những năm 1930-1931,
đồng thời với Đông Dương Cộng sản đảng hoạt động.
Phong trào Cộng sản cũng lan tràn nhanh chóng như thứ cây
ấy, cũng không trừ khử được như thứ cây ấy; và theo
ông: "cho nên bọn Tây đồn điền đặt tên là "herbe
Communiste" đáng lẽ dịch là "cỏ Cộng sản". Nó c̣n
một tên rất lạ; hỏi ông già Thổ, tên nó là cây ǵ?
ông nói tên nó là "cỏ cụ Hồ". Thứ cỏ nầy trước
kia ở đây không có, từ ngày cụ Hồ về đây "lănh đạo
cách mạng" th́ thứ cỏ ấy mọc lên, không mấy lúc mà
đầy cả đường sá đồi nương, người ta không biết tên
nó là ǵ, thấy nó cùng một lúc với "cụ Hồ" về th́
gọi nó là như vậy".
Đó, văn-chương phản-kháng là như vậy đó! Những con
người yêu tư.đo, chuộng ḥa-b́nh đă h́nh-tượng hóa,
nhân-cách hóa; so-sánh giữa một loài có hại cho con người
với chủ nghĩa Cô.ng-sản như thế đó. Không phải vô cớ
họ nghĩ ra những điều châm-biếm sâu-sắc như vậy nếu
chế độ ấy không tước đoạt quyền sống của họ, đày
ải họ, buộc họ phải thốt lên tiếng nói tự đáy ḷng
ḿnh.
Một trong các tội ác tày trời của Cô.ng-sản Hà-Nội là
giết chết, bỏ tù, đo.a đày, khống-chế, hămđọa, ngăn
cấm, giới hạn mọi hoa.t động của giới văn-nghê.-sĩ,
những người dùng ng̣i bút của ḿnh để làm nên những
tuyê.t-tác văn-chương cho đất Việt, một đất nước sinh
sản ra những văn nhân tài-hoa, làm giàu thêm cho kho tàng
ngôn-ngữ của dân-tộc vốn được tiền nhân vun bồi và
để lại cho hậu thế. Dưới chế độ bạo tàn Cô.ng-sản,
văn chương, văn-nghệ, nghê.-thuật không c̣n ư nghĩa
thư.c-tế của nó mà là những công-cụ phu.c-vu. cho
chế độ để nó tồn tại và rồi đàn-áp nhân dân.
5. Lời Kết.
Mỗi lần Xuân về là dịp ta nhớ lại bài Ông Đồ của Vũ
Đ́nh Liên. "Ông đồ của năm 1937" như một nốt ruồi
duyên điểm trên gương mặt thơ ngây của cô gái dậy
th́. Bất hạnh thay, cô gái nọ theo đ̣i điểm trang sau khi
đă sa chân vào chốn hồng lâu, cam tâm làm nha trảo cho mụ
Tú Bà nên đă tô lên mặt những lớp son phấn kê.ch-cỡm,
không những làm cho gương mặt ḿnh xấu đi mà c̣n làm cho
nốt ruồi duyên mất vẻ đáng yêu thuở nào. Đau đớn
hơn, cô ta đem thân làm nôđịch cho mụ tú-bà, quên đi
những việc làm điếm nhục gia phong, không sợ người
đời khinh rẻ. Bài thơ "Ông đồ cũ" sống măi trong
văn-học Viê.t-Nam nhưng đă bị những "ông đồ mới"
khai tử nó. Đối với những người yêu tư.đo, chuộng
công-lư coi như người sáng-tác ra nó đă chết từ thập
niên 1950 khi ông khoác vào người chiếc áo đảng vậy.
Điều đáng nguyền rủa nhất là họ Vũ đă tiếp tay cho
chế độ tàn-bạo đă xua đuổi hơn hai triệu người Việt
phải bỏ quê-hương thân yêu, bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, ra
đi không quản ngại chết chóc, hiểm nguy, tản-mác đến
những vùng đất xa lạ mà họ chưa từng nghĩ đến để
phải làm người vong quốc, mang tâm-trạng như lời Georghiu,
nhà văn Nga-sô: "Không có ǵ bất hạnh hơn niềm bất hạnh
của một con người không c̣n quê hương ... "
Thay lời kết, người viết mượn lời thơ của Hải Nam
để gởi đến tác-giả của "ông đồ mới", gởi đến
đám người đón gió trở cờ, bọn cơ-hội, bọn măi quốc
cầu vinh, bọn văn nô bồi bút lời nhắn:
"Mặc kẻ chép công, ta chép oán,
Công riêng ai đó, oán ta chung"!.
Lê Chánh Thiêm
Chú-Thích:
Chính Nguyễn Tuân tự thú rằng, sở dĩ những người như
ông ta sống được đến ngày hôm nay (sau 30-4-1975) là v́
ông ta biết "sợ". Ông ta sợ ba.o-lực, thủ đoạn của
Cô.ng-sản, ông c̣n biết ḿnh "hèn" nhưng v́ muốn
sống; sau đó v́ miếng đỉnh chung nên tiếp tục cam-tâm
làm tay sai cho Cô.ng-sản. Con người ông thay đổi sau lần
bài viết của ông bị ban kiểmđuyệt báo chí của Hà-Nội
sửa đổi và bị gán cho lời phê: "Có vấn đề".
Chế Lan Viên: Theo lời ông ta, sau hôm Hồ Chí Minh chết,
"Chế Lan Viên ở trên gác một tuần liền, không ăn
không ngủ, khóc sưng cả mắt v́ thương nhớ bác Hồ".
Phùng Quán: Là người có những lời thơ chống Cộng mạnh
mẽ nhất trong phong-trào "Trăm hoa đua nở trên đất
Bắc". Những bài thơ của ông được coi như là "những
quả bom" bắn vào chế độ Hà Nội, đặc biệt là hai
bài thơ "Chống tham ô lăng phí" và "Lời mẹ dặn",
có những câu như "Yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo
là ghét"... Ông bị bắt làm bản thú tội, bị đày đi
chính huấn.
Phùng Quán quê ở Phú Vang, Thừa Thiên, gọi Tố Hữu bằng
cậu. Chuyện kể khi Tố Hữu làm phó Thủ- tướng, nhà
thường đông khách, xe hơi đậu từng dăy dài trước nhà,
nhất là vào các dịp lễ, ngày Tết. Sau khi Tố Hữu bị
hất rơi đài, nhà vắng vẻ; lúc nầy Phùng Quán mới chịu
đến thăm cậu. Khi tiễn Phùng Quán ra về, Tố Hữu nói:
"Cậu nghĩ cháu dại. Nhưng suy cho cùng th́ cậu cũng
dại". Người đời không cho Phùng Quán dại mà chính Tố
Hữu là người đại ngu. Hai cậu cháu đều để tiếng
đời, tiếng thơm và tiếng nhơ: Phùng Quán được tiếng
thơm, Tố Hữu chịu tiếng ngu dại, muôn đời khó gột
rửạ
Không có tự do trong sáng tác, người nghệ sĩ sẽ chết
ṃn... do đó sẽ không c̣n tác phẩm có giá trị! Chẳng
hạn trường-hợp của Thế Lữ (c̣n có bút hiệu Lê Ta).
Tuyên ngôn về tự do, được h́nh tượng hoá bằng ngôn
ngữ của con hổ trong bài Nhớ Rừng. Phải chăng bài thơ
này là sáng tác cuối của ông bởi v́ sau khi trở về
tiếp quản Hà Nội (1954) cho tới lúc qua đời, Thế Lữ
hầu như ngừng sáng tác. Đối với giới văn-nghệ sĩ bị
buộc phải ngưng sáng tác như người chết v́ bị "cứa
cổ". Chết v́ bị cắt cổ th́ chết ngay, ít bị đau
đớn; chết bị cứa, cái chết đến từ từ, cái đau kéo
dài trong đau khổ tột cùng.
Tô Hoài không viết nữa v́ theo ông, viết làm ǵ khi "ở
vào thời đại nhà văn phải gian dối, phải suy tôn
lănh-tụ".
Sau vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, cụ Phan Khôi tuy không giống
như những văn nghệ sĩ, trí thức khác (phải vào tù, đi
lao động khổ sai, quản thúc,...) nhưng cuộc đời của ông
là những ngày c̣n lại cô đơn, chán nản, buồn thảm cho
riêng ḿnh và những người bị chế độ ruồng-bố. Ông
có những vần thơ cù-nhầy như sau:
"Làm sao cũng chẳng làm sao
Dẫu có thế nào cũng chẳng làm sao
Làm chi cũng chẳng làm chi
Dẫu có làm ǵ cũng chẳng làm sao"
Rồi ông đă ví ḿnh như một con heo, sống dưới chế
độ Cộng sản miền Bắc:
"Đánh đùng một cái
Kêu éc éc ngay
Bịt mồm, bịt miệng
Trói chân, trói tay ...
Từ dây đến cái đao
Chẳng c̣n bao xa"
và những câu trong bài thơ chúc thọ:
"Lên bảy mươi rồi mẹ nó ơi!
Thọ ta, ta chúc nọ phiền ai"
Bài thơ đến tai Nguyễn Công Hoan, một bồi bút đắc lực
ḥng kiếm miếng đỉnh chung. Hoan họa lại bài thơ bằng
lời lẽ vô lễ, khiếm nhă với nhà thơ bậc đàn anh của
ḿnh:
"Nhắn bảo Phan Khôi khốn kiếp ơi!
Thọ mi, mi chúc chớ ḥng ai
Văn chương! Đù mẹ thằng cha bạc!
Tiết tháo! Tiên sư cái mẽ ngoài
Lôđích, trước cam làm kiếp chó
Nhân văn nay lại hít ǵ voi
Sống dai thêm tuổi cho thêm nhục,
Thêm nhục cơm trời chẳng thấy gai".
chế độ Cô.ng-sản sinh sản, đào-tạo ra hạng người
ni.nh-no.t, bợ đỡ, hỗn-xược... hết chỗ nói, không bút
mực nào tả xiết. Đó là đă.c điểm của chế độ mà
bọn họ đă đem thân phu.c-vu.. Câu ví người xưa để lại
"Cha nào con nấy", thật không sai vậy!!