Minh Họa Cung Oán Ngâm Khúc

 

                                                                            GS  Nguyễn Xuân Vinh

 

            Trời bên ngoài nóng gần 100 độ F, nhưng trong pḥng hội của Trung Tâm ViVo, ở  San Jose, ngày Chủ Nhật 23 tháng Bẩy năm 2006, một số đông người Việt yêu văn thơ của miền Bắc Cali đă tới trước giờ khai mạc để ngồi chật pḥng họp và chờ đợi một buổi chiều văn học như đă được loan tin trên báo chí và một vài chương tŕnh phát thanh trong vùng Vịnh Cựu Kim Sơn từ hai tuần vừa qua.

 

            Buổi văn học này chủ yếu là giới thiệu tác phẩm Cung Oán Ngâm Khúc  của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều với bản dịch Anh ngữ của GS Nguyễn Ngọc Bích, nhưng cũng là một chiều tưởng niệm cố Họa Sĩ kiêm Điêu Khắc Gia Đặng Trần Mai Lân, người đă tạo dựng 40 bức minh họa mầu cho cuốn sách. Nh́n ngoài b́a cuốn sách do Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ phát hành với tấm tranh vẽ  người cung phi ôm đàn như chờ đợi  quân vương tới nghe thưởng thức, với những hàng chữ tiêu đề cuốn sách Cung Oán Ngâm Khúc- Complaints of An Odalisque  và tên những tác giả, dịch giả và họa sĩ theo thứ tự Nguyễn Gia Thiều, Translated with a Commentary  by Nguyễn Ngọc Bích, Illustrated by Mai Lân, người ta thấy ngay đây là một phương cảo rất đặc biệt. Thật vậy, theo như nhà văn Trương Anh Thụy giới thiệu mở đầu cho cuốn sách, nhà xuất bản đă đưa ra một sáng tác phẩm lớn của văn học Việt Nam biểu hiệu được cái hay, cái lạ và khác thường ở chỗ phần thơ là một trong ba đỉnh cao phong của văn học cổ truyền, nay được dịch sang Anh ngữ bởi một học giả uyên bác, và sau cùng lại được minh họa bằng 40 bức tranh màu tuyệt kỹ của một họa sư danh tiếng, rất được ngưỡng mộ của thời đại. Để hiểu biết thêm về tầm quan trọng của cơ duyên hợp tác này, chúng ta thử coi lại công nghiệp của ba danh sĩ Việt Nam ở ba thế hệ khác nhau đă góp phần vào cuốn sách, được Cơ Sở Thi Văn Cội Nguồn giới thiệu ngày hôm nay.

 

            Ba cuốn cổ thi được coi như là ba đỉnh cao phong của nền văn học Việt Nam, và được giảng dậy trong chương tŕnh Trung học của thời Việt Nam Cộng Hoà là Truyện Kiều của Nguyễn Du (1765-1820), Chinh Phụ Ngâm, nguyên bản Hán văn của Đặng Trần Côn (1710-1745) với bản dịch Việt văn của Đoàn Thị Điểm (1705-1748), và Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều (1741-1798). Nếu đem phẩm b́nh so sánh ba tác phẩm th́ viết hàng ngàn trang giấy cũng không đủ. Ta chỉ có thể nói là trong khoảng thời gian từ năm sinh của bà Đoàn Thị Điểm cho đến năm Nguyễn Du qua đời, trải dài trên một trăm năm vào thời sáng tác cực thịnh của chữ Nôm, ba tuyệt tác phẩm được ra đời, theo thứ tự thời gian, và được truyền tụng trong dân gian là Chinh Phụ Ngâm , Cung Oán Ngâm Khúc và Truyện Kiều, hai thi phẩm đầu viết theo thể song thất lục bát và Truyện Kiều viết về sau theo thể lục bát, và mỗi thi phẩm có một sắc thái riêng biệt. Tác giả Cung Oán Ngâm Khúc, nguyên xuất thân ḍng vơ, tổ phụ là Siêu Quận Công Nguyễn Gia Châu, và thân phụ là Đạt Vũ Hầu Nguyễn Gia Ngô, và riêng ông năm 18 tuổi đă là quan vơ, chức hiệu úy, tới năm 30 tuổi đă lập được nhiều chiến công dẹp giặc và được thăng chức Tổng binh đồng tri, phong tước Ôn Như Hầu. Nhưng nhờ có thiên tư đặc biệt, thuở nhỏ đă được vào Phủ Chúa Trịnh luyện tập văn bài, lại có khiếu về âm nhạc, hội hoạ và kiến trúc nên sau này tác giả đă trở nên một con người toàn diện, văn cũng thành công như vơ, và tác phẩm để lại đời sau đă có một thi phong đặc biệt, tả lời oán trách của một cung phi bị quân vương lăng quên, thốt lên những lời ai oán sầu muôïn, than thân trách phận. Sau gần hai thế kỷ, khi những thi phẩm Việt Nam được đưa ra giới thiệu trên thi đàn toàn cầu qua những bản dịch sang Pháp ngữ và Anh ngữ và nhiều ngoại ngữ khác, và được những hoạ sĩ tài danh vẽ tranh minh hoạ, người ta mới nhận thấy sự khác biệt trong cách kiến trúc những ḍng thơ của các danh sĩ thời xưa, và thấy rằng có lẽ Cung Oán Ngâm Khúc là thi phẩm khó dịch ra ngoại ngữ và khó minh họa hơn cả, để cho đến nay mới có một ấn phẩm song ngữ phần minh hoạ của người thời nay được cân xứng với lời thơ ai oán và trang trọng của tiền nhân.

 

            Dịch giả của kiệt tác phẩm là giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, là một chuyên gia về văn học cổ điển Đông phương. Ông cũng có nhiều năm kinh nghiệm giảng dậy về Văn minh, Văn hoá Việt Nam tại các trường Đại học nổi tiếng ởâ miền Đông Hoa Kỳ, và là dịch giả của nhiều áng văn thơ cổ điển có giá trị trong nền Văn học Việt Nam. Ông và giáo sư Huỳnh Sanh Thông ở Đại Học Yale là hai người có công rất lớn để giới thiệu nền thi ca Việt Nam tới những độc giả Anh ngữ. Riêng tập Cung Oán Ngâm Khúc, dài tới 356 câu, không những chứa nhiều điển tích như Truyện Kiều, nên rất khó dịch bằng những câu ngắn gọn, mà thêm nữa lại c̣n chứa nhạc tính trong những câu thơ v́ tính chất than văn, bi thương của t́nh khúc, nên khó ḷng mà diễn  đạt được cho người đọc ngoại ngữ có cùng một cảm xúc như khi ta đọc bản tiếng Việt. Trong một bài viết mới đây, nhà văn Thư Sinh đă nêu lên sự thành công của giáo sư Nguyễn Ngọc Bích trong việc chuyển ngữ tập thơ, khi mà những điển tích và thành ngữ hầu như nằm trong từng câu thơ. Ông lấy thí dụ bốn câu của cụ Nguyễn Gia Thiều:

 

                                    “Trong gang tấc, mặt trời xa mấy!

                                    Phận hẩm hiu nhường ấy v́ đâu?

                                    Sinh ly đ̣i rất đời Ngâu

                                    Một năm c̣n thấy mặt nhau một lần.”

 

đă được giáo sư Nguyễn Ngọc Bích chuyển thành:

 

                                    “The sun, though is inches away

                                    Why do I end up with such a rotten destiny?

                                    The pain of separation between

                                    The Herd Boy and her Weaving Maid

                                    Is still aleviated by at least one meeting a year.”

 

Vấn đề cam go là để cho độc giả Anh ngữ hiểu biết rằng t́nh cảnh phân ly giữa Ngưu Lang và Chức Nữ c̣n được an ủi hơn nỗi cô đơn của người cung phi, giáo sư Nguyễn Ngọc Bích qua câu dịch đă giải thích về điển tích này mà không quá kéo dài thêm lời dịch. Ông Bích cũng dùng phương pháp khác, để giúp cho người đọc bản dịch hiểu rơ nghĩa, bằng cách thêm phụ lục cho cuốn sách mỗi khi gặp những đoạn đ̣i hỏi một sự giải thích riêng biệt để giữ cho phần dịch được sát nghĩa với câu thơ. Chẳng hạn lấy đoạn  người thiếu nữ đương xuân, trước khi được tuyển vào cung đă tự hào về sắc đẹp của ḿnh bằng những câu thơ:

 

                                    “Ch́m đáy nước cá lờ đờ lặn,

                                    Lửng da trời nhạn ngẩn ngơ sa.

                                    Hương trời đắm nguyệt say hoa:

                                    Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật ḿnh.”

 

Giáo sư Bích đă dịch ngắn gọn cho trọn nghĩa những câu thơ nguyên thủy

 

                                    “Plunk … to the very bottom the fish sank

                                    And in mid-air the swallows dropped like rocks!

                                    My natural fragrance stunned the flowers,

                                    inebriated the moon.

                                    Xi Shi lost her soul while Chang E shuddered inside”.

 

Nhưng để bù lại, th́ trong phần phụ lục, ông cũng đă thêm lời giải thích về sự người con gái đẹp trong truyện đă khoe sắc diện của ḿnh không thua kém ǵ vẻ tuyệt vời của tứ đại mỹ nhân bên Trung Quốc, đă được truyền tụng lại là vẻ đẹp của Chiêu Quân đă làm cho nhạn dừng cánh bay mà sa xuống, Tây Thi giặt lụa bờ sông đă làm cá bị thu mất hồn ngừng bơi mà ch́m xuống đáy, thấy Điêu Thuyền mà mặt trăng đă phải lẩn vào bóng mây, và bàn tay Dương Qúy Phi vừa chạm vào mà cánh hoa đă phải cụp lại.

 

            Cùng với bốn câu thơ này th́ giáo sư Huỳnh Sanh Thông tuy hàm ư một phần trong lời dịch

 

                                    “Love-smitten fish would sink to ocean depths;

                                    Enamored birds would drop from heaven’s heights.

                                    Her scent divine would charm the moon and flowers,

                                    Entrance Hsi Shih, bewitch  Ch’ang O herself”.

 

nhưng cũng phải thêm trong phần phụ lục Tây Thi và Hằng Nga là những người có sắc đẹp tuyệt vời để tăng ư nghĩa cho sự so sánh.

 

            Một sự đóng góp quan trọng để tập thơ song ngữ này có cơ duyên được phổ biến rộng răi và lưu trữ là 40 bức tranh minh hoạ của cố hoạ sĩ kiêm điêu khắc gia và cũng là một học giả là ông Đặng Trần Mai Lân. Từ năm 1956 đến năm 1984 họa sĩ sáng lập ra Trung Tâm Hội Họa và Điêu Khắc và mở các lớp truyền dậy hội họa và điêu khắc lấy tên là Thế Hệ tại Sàig̣n. C̣n kẹt lại ở Việt Nam sau biến cố 1975, cho đến năm 1989 khi ông và gia đ́nh được sang định cư ở Hoa Kỳ theo diện HO, Mai Lân đă dùng thời gian c̣n ở lại trong nước để nghiên cứu các di tích lịch sử tại 36 phố phường Hà Nội cùng các tỉnh miền Bắc Việt Nam và đă sáng tác thành tranh qua các bộ cổ thư gồm có:

-          Truyện Kiều : 240 bức

-          Cung Oán Ngâm Khúc : 40 bức

-          Chinh Phụ Ngâm : 71 bức

-          Bích Câu Kỳ Ngộ : 54 bức

-          Lục Vân Tiên : 124 bức

-          Thạch Sanh : 127 bức.

 

            Nh́n thấy ba tập thơ đầu tiên và số lượng tranh minh hoạ th́ ta thấy ngay là vẽ tranh cho Cung Oán Ngâm Khúc cũng rất khó như khi dịch cuốn thơ. Lấy trong Truyện Kiều chẳng hạn th́ bất kỳ câu nào cũng có thể làm cho người họa sĩ nổi hứng để vẽ thành tranh được. Như trong sách, nếu ta đọc thấy những câu tả cảnh của cụ Tiên Điền:

 

                        “Cỏ non xanh tận chân trời, 

                        Cành lê trắng, điểm một vài bông hoa”.

 

th́ ta đă thấy như hiện ra trước mắt một phong cảnh để minh họa. Lấy môït đọan khác như khi tả cảnh Từ Hải đă làm nên sự nghiệp nay đón Kiều về để cùng chung hưỏng phú qúy, cụ Nguyễn Du đă viết:

 

                        “Kéo cờ lũy, phát súng thành,

                        Từ công lên ngựa, thân nghênh cửa ngoài.

                        Lữa ḿnh là vẻ cân đai,

                        Vẫn c̣n hàm én, mày ngài như xưa”.

 

Từng chữ, từng câu như ở trên hẳn như đă sắp xếp cho họa sĩ dễ dàng đưa h́nh ảnh lên khung vải.

 

            Cuốn Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn, khi đọc lên cũng dễ gợi hứng cho người minh họa. Dù là cảnh mẹ già con dại ở nhà chờ đợi:

 

                        “Ḷng lăo thân, buồn khi tựa cửa,

                        Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm”.

 

hay cảnh trao gươm lệnh từ chín bệ rồng cho vị nguyên nhung:

 

                        “Chín lần gươm báu trao tay,

                        Nửa đêm truyền hịch, định ngày xuất chinh”.

 

bất cứ ở đoạn nào trong câu chuyện ta cũng thấy h́nh ảnh như được vẽ ra trước mắt.

 

           Ngược lại, nếu ta đọc Cung Oán Ngâm Khúc th́ ở trang nào cũng chỉ là tả tâm sự của người ở cô pḥng, người họa sĩ rất khó ḷng bộc lộ thành tranh để sao cho nét mặt của người cung phi đượm vẻ sầu tư nhưng vẫn giữ được nhan sắc mặn mà. Như nay chỉ đọc mấy câu mở đầu:

 

                        “Trăi vách quế gió vàng hiu hắt,

                        Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng.

                        Oán chi những khách tiêu pḥng,

                        Mà sui phận bạc nằm trong má đào?”

 

là ta thấy ngay cả một trời khó khăn cho người chuyển ngữ, và hơn thế nữa cho người tạo h́nh để minh họa cuốn phuơng cảo. Vậy mà thiên tài Mai Lân đă tạo dựng được 40 bức tranh đượm vẻ đài trang khuê các. Những bức tranh này, tuy có y phục đượm mầu cung đ́nh Trung quốc, nhưng có nhiều tranh vẽ người phụ nữ Việt Nam với những áo cánh cổ truyền.

 

            Chúng tôi phải thêm ở đây là cố họa sĩ Mai Lân cũng là một học giả nghiên cứu về lịch sử của dân tộc. Những năm trong khoảng 1989-2004, họa sĩ đă dành th́ giờ điêu khắc nhiều tượng Phật và tượng những anh hùng dân tộc. Ông đă hoàn thành được bức tượng Đức Thánh Trần, rồi đây sẽ được đặt ở Công Viên Văn Hóa mà Hội Truyền Thống Việt, sau nhiều năm vận động với Hội Đồng Thành Phố San Jose, đă đi tới giai đoạn cuối cùng để thực hiện được dự án vô cùng quan trọng này. Gần hai năm trước đây, trước khi qua đời vào ngày 18 tháng 12 năm 2004, hưởng thọ 78 tuổi, điêu khắc gia Mai Lân đă được qúy vị trong Ban Chấp Hành cũa Hội Truyền Thống Việt tới thăm tại tư gia và cho biết diễn tiến tươi đẹp về sự thực hiện trong tương lai của Công Viên Văn Hóa mà ông đă là một người ủng hộ rất nhiệt thành với tư cách là một vị cố vấn quan trọng, với những ư kiến thường được lắng nghe.

 

            Cũng v́ nghĩ đến sự đóng góp quan trọng của cố họa sư – điêu khắc gia Mai Lân vào nền văn hoá Việt mà trong buổi giới thiệu cuốn sách song ngữ Cung Oán Ngâm Khúc-Complaints of An Odalisque vào một buổi chiều hè ở San Jose khi nhiệt độ lên tới con số kỷ lục trên 100 độ F, mà chúng ta thấy trong hội truờng có sự  hiện diện của những vị trưởng thượng khả kính như giáo sư Nguyễn Khắc Kham và nhân sĩ Vơ Toản, cả hai vị đều đă ngoài 90 tuổi, cùng nhiều vị trong Hội Cao Niên Vùng Vịnh Bắc California, và nhiều vị Chủ Nhiệm, Chủ Bút của những Nhật báo và Tuần báo có tầm vóc trong vùng. Buổi chiều Văn Hoá đă được mở đầu với hai diễn giả là giáo sư Nguyễn Xuân Vinh và nhà văn Diên Nghị sau phần nghi lễ khai mạc và lời chào mừng của bác sĩ Phạm Đức Vượng, đại diêïn cho Ban Tổ Chức. Phần văn nghệ tiếp theo cũng không kém phần linh động với ca sĩ Xuân Khang làm MC, để giới thiệu ca sĩ Triệu Minh lên ngâm những đoạn thơ chọn lọc trong cuốn sách và những giọng ca Thu Nga và Mỹ Thể cùng với tiếng đàn đệm của La Vân đă làm tăng thêm phần phong phú cho buổi họp. Sau cùng bác sĩ Phạm Đức Vượng đă giới thiệu bà Mai Lân lên nói những lời cảm tạ đầy chân t́nh của gia đ́nh với ḷng ưu ái mà người đồng hương đă dành cho cố họa sư-điêu khắc gia Mai Lân trong những năm qua.

 

            Để kết luận bài tường thuật này, chúng tôi xin mượn lời sau đây của giáo sư Nguyễn Ngọc Bích viết ở phần sau cuốn sách:

 

            “Chúng tôi mong là sẽ đem được đến cho thế giới một bộ tranh – thơ Việt Nam rất độc đáo và xứng đáng với tầm quan trọng của các tác phẩm thơ được đem ra tŕnh bầy với nhân loại.

            Cuối cùng chúng tôi xin dâng tác phẩm này lên hai người, hai nghệ sĩ hàng đầu của Việt Nam, tác giả Cung Oán Ngâm Khúc, Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều và họa gia, họa sư Mai Lân, một người đă bỏ cả đời ra cống hiến cho văn học và mỹ thuật Việt Nam.”