Nguyễn
văn Lục
Mới đây, tôi đọc đâu đó một bài báo với nhan đề: Phạm Duy đă chết.
Tôi giật ḿnh. Nhưng chợt nhận ra ngay, đó chỉ là một lối viết. Lối viết đó
cũng đă được Nguyễn Trọng Văn dùng trong bài nói truyện tại trường Đại Học
Văn Khoa Sàig̣n vào ngày 6-6-1971, do phong trào Tự Trị Đại Học tổ chức. Đề
tài với nhan đề: Phạm Duy đă chết như thế nào?
Bài nói truyện hẳn gây được tiếng vang trong giới văn học miền Nam lúc bấy
giờ. Bởi v́ ít nhạc sĩ nào có thể so b́ được với Phạm Duy? Cùng lắm trừ một
người. Chọn Phạm Duy mà không chọn ai khác là một chọn lựa có chủ đích của
anh Nguyễn Trọng Văn. Đánh vào cái thành tŕ tiêu biểu là giới trí thức
thành thị, miền Nam, người nghệ sĩ được quần chúng ưa chuộng. Đồng thời tước
đi cái ảo tưởng của một ư thức hệ trong chiến tranh sắp đến hồi chung cuộc.
1.-Phạm Duy đă chết v́ phản bội lại kháng chiến?
* Phạm Duy chối bỏ kháng chiến
Nguyễn Trọng Văn đă nghĩ như thế. Đă viết để chứng minh điều ấy.
Nguyễn Trọng Văn cho rằng đă có rất nhiều thanh niên đă theo kháng chiến
và sau đó đă dời bỏ kháng chiến. Anh viết:” Trí thức theo Cách Mạng và bỏ
cách mạng không phải là điều khó hiểu, trách Phạm Duy như vậy có lẽ quá khắt
khe. Điều mà Nguyễn Trọng Văn lên án Phạm Duy không phải ở chỗ từ
bỏ kháng chiến mà chối bỏ và hơn thế xóa bỏ kháng chiến. Xóa bỏ bằng
cách thay đổi lời ca trong các bài nhạc làm trong thời kỳ kháng chiến.
Phạm Duy hầu như đă sửa ṭan bộ các lời ca có dính dáng đến kháng chiến? ?
Bài hát v́ thế mất hết ư nghĩa lịch sử và chiến đấu tính, chỉ c̣n là
những bản nhạc lại cái, đồng cô bóng cậu “
[1]
Và Nguyễn Trọng Văn kết luận: Phạm Duy kháng chiến ca của dân tộc đă
chết. Điều bi đát không phải bông hoa Phạm Duy chỉ nở một lần, điều bi đát
là bông hoa đó đă tự chọn cái chết như vậy.
Về điểm này, có thể Nguyễn Trọng Văn nói không sai, Phạm Duy không những sửa
một lần mà sửa hai ba lần những bài ca của ông. Và tùy thời, tùy lúc mà ông
đă sửa. Điều đó nhiều lúc làm tôi không thể không liên tưởng đến một thái độ
xu thời hay một thứ chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa thực dụng với một nhạy bén
chính trị. Sự nhạy bén chính trị đó đáp ứng bằng những sáng tác hợp thời cơ?
Từ đó đặt ra vấn đề sáng tác là nguồn cảm hứng đích thực hay chỉ là một nhu
cẫu đ̣i hỏi cấp thời của một t́nh thế? Tại sao ở thời điểm đó có kháng chiến
ca, t́nh ca, đạo ca, tâm ca, tục ca ? Đó cũng là những trăn trở của tôi khi
t́m hiểu về Phạm Duy?
Và người ta đă chẳng ngại ngùng ǵ nói đến một thứ trí thức for rent? Hơn ai
hết Phạm Duy hiểu thâm ư của lời mỉa mai này.
Chẳng hạn Nguyễn Trọng Văn đưa trường hợp bản nhạc Quê Nghèo trước
đây ca ngợi t́nh quân dân đ̣an kết chiến đấu nay trở thành câu chuyện t́nh
bông lơn, tán tỉnh nhau.
Lời cũ : Bao giờ anh lấy được đồn Tây hỡi anh
Để em gánh nước cho người chiến binh
Nay đổi ra :
Bao giờ em trỏ lại vườn dâu hỡi em
Để cho anh bắc gỗ xây nhịp cầu bước sang
Đến Vườn dâu mà cũng phải bắc gỗ xây nhịp cầu th́ kể cũng lạ. Có ép ư, ép
lời không?
Trong Bài hát Tiếng sông Lô, cũng cùng một cách thay đổi như trên:
Lời cũ : Quân cướp tham ô ngày nao đă chết không ngờ
Nay đổi ra : Trăng nước mông mênh, thuyền trôi trên sóng đa t́nh …
Và sau này ở Hải ngọai, một lần nữa, Phạm Duy lại đổi ca từ như tôi t́m đọc
thấy trong Ngàn lời ca của Phạm Duy như sau :
Quân cướp đi xa, về đây ta sống chan ḥa
Nguyễn Trọng Văn cũng đă hết lời ca ngợi tiếng Sông Lô nói lên tất cả cái
khí thế hào hùng, mưu trí và óc sáng tạo tuyệt vời của nhân dân Việt Nam
chống thực dân Pháp, nay trở thành lời tâm sự của nghệ sĩ đa t́nh t́m kiếm
hạnh phúc trên ḍng sông sâu.
Nguyễn Trọng Văn thất vọng là phải.
Lời cũ: Hỡi anh vệ quốc cầm súng ngang tàng
Thuyền tôi đợi bến Tuyên Quang
Nửa đêm trông ánh trăng vàng (tôi) nhớ anh (….)
Lời mới:
Hỡi ai đi kiếm hạnh phúc trên đời
Mà chưa t́m thấy an vui
Lặng nghe tôi gửi đôi lời gió trăng …
Nhưng trong Ngàn lời ca, Phạm Duy lại thay đổi bằng cách giữ lại
nguyên văn lời cũ như sau :
Hỡi anh vệ quốc cầm súng ngang tàng
Thuyền tôi đậu bến Tuyên Quang
Nửa đêm trông ánh trăng vàng (tôi) nhớ anh (Ngàn lời ca, trang 35). Sự thay
đổi như thế thật là tắc trách lắm. Nguyễn Trọng Văn cũng có lư phần nào.
Nhưng cũng nên hiểu rằng vào năm 1971, khi Nguyễn Trọng Văn viết cuốn
Phạm Duy đă chết như thế nào th́ lúc đó Phạm Duy chưa viết hồi kư. Nếu
anh Văn có dịp đọc hồi kư rồi th́ cũng có thể có cái nh́n khác về Phạm Duy?
Và có thể v́ có cơ hội đọc lại Hồi kư Phạm Duy mà tôi thấy cần phải nh́n lại
quan điểm phê phán của Nguyễn Trọng Văn, một người bạn học cùng lớp đă gần
nửa thế kỷ mà tôi vẫn trân trọng và quư mến.
Trong hồi kư 1, ông Phạm Duy viết như thế này về ḥan cảnh sáng tác về chiến
dịch sông Lô. Nhưng trong đám nhạc sĩ chúng tôi, lập tức có ngay những
tuyệt phẩm như bài Lô Giang của Lương Ngọc Trác, rồi Trường ca Sông
Lô của Văn Cao, Du kích sông Lô của Đỗ Nhuận và Tiếng Hát sông
Lô của Phạm Duy. Điều đó cho thấy việc sáng tác nằm sẵn trong chiến dịch
tuyên truyền nên mới có trường hợp bốn nhạc sĩ cùng sáng tác về một đề tài
Bốn nhạc sĩ cùng sáng tác về một đề tài như một thứ đơn đặt hàng th́ có phí
phạm không ?
Phạm Duy viết tiếp. ”Nói về cả một chiến dịch th́ chẳng nhừng thắng lợi
sông Lô chỉ là những chiến công cục bộ, bởi v́ vào lúc khởi đầu của chiến
dịch Léa, gọng ḱm lớn ở miền Đông là Bắc Kạn và Lạng Sơn vẫn c̣n rất manh…
Những người phục vụ cho Cục chính trị như chúng tôi được khuyến khích để làm
cho chiến thắng Sông Lô trở thành một chiến công vô cùng rực rỡ. Bây giờ nếu
có ai ṭ ṃ – như tôi – đi t́m đọc những tài liệu của Pháp viết về chiến
tranh Đông Dương, sẽ chẳng thấy một ḍng chữ nào cho cái được gọi là Lô
Giang của Lương Ngọc tức Luơng Ngọc Trác. Bài này duyên dáng, mặn mà vô
cùng”[2]
Hóa ra đó chỉ là sản phẩm tuyên truyền, mà giá trị nghệ thuật chỉ là phụ,
không đáng kể? Mặc dầu vậy đó là những bài hát quen thuộc và nổi tiếng của
ông trong thời kỳ kháng chiến?
Cho nên, không lạ ǵ khi cần, PD đă không nề hà thay đổi tùy tiện tùy theo
nhu cầu thực tiễn. Điều đó không khác ǵ Tố Hữu làm thơ ca ngợi chiến trận
Điện Biên. Trong một bài trả lời phỏng vấn của Trần Đăng Khoa, Tố Hữu đă nói
hụych tẹt ra là ông đă viết phịa, không hề ra mặt trận.
Phạm Duy có thể viết phịa, sáng tác phịa về trận đánh trên Sông Lô. Tố Hữu
cũng làm thơ phịa. Đă gọi là sáng tác phịa th́ việc thay đổi lời ca c̣n có
ǵ được gọi là phản bội nữa? Phải chăng anh Nguyễn Trọng Văn đă quá lư tưởng
hóa những ư hướng sáng tác thuần túy nghệ thuật của Phạm Duy và cũng v́ thế
lời kết án có thêm trọng lượng?
Thật ra theo tôi hiểu, Nguyễn Trọng Văn đă không biết được trong ḥan cảnh
nào mà Phạm Duy đă sáng tác bản nhạc Tiếng hát Sông Lô, cho nên những
suy đóan thuận lư của anh đă không chuẩn xác ?
** Phạm Duy không phản bội kháng chiến mà ngược lại
Anh Nguyễn Trọng Văn đă tự chọn cho ḿnh một góc đứng nào đó để phê phán
Phạm Duy.
Và đă có chỗ anh kết luận:” Hiện nay, Phạm Duy có thể là người nghệ sĩ có
tài, nhưng không phải là đứa con yêu của dân tộc, ông là đứa con hoang”.[3]
Cho nên, đối với anh, Dinh tê có lẽ đă là một phản bội mà đáng nhẽ phải gọi
đúng tên là bọn Việt gian. Nhưng hơn là một phản bội, v́ đă sửa lại lời ca
trong các bài hát của chính ḿnh. Nhưng người ta vẫn có thể đặt ngược lại
là: ai phản bội ai? Nếu hành vi bỏ không theo kháng chiến là một phản bội
th́ thái độ ly khai với kháng chiến có thể được hiểu là thái độ tố cáo sự
bội phản của kháng chiến không? Nghĩa là chính kháng chiến Việt Minh là một
phản bội? Và v́ thế đă có một số không ít những thanh niên đă đi theo kháng
chiến, đă thất vọng và đă dinh tê ? Dinh tê có thể gián tiếp tố cáo
một sự bội phản đối với những người đă chót đi theo kháng chiến ?
Trong giới văn nghệ sĩ ở Sàig̣n, đă có nhiều người cũng đă từng đi theo
kháng chiến và đă bỏ kháng chiến. Vơ Phiến ở B́nh Định cũng bỏ kháng chiến
về với phía Quốc Gia, B́nh Nguyên Lộc trong Nam cũng vậy ? Rồi cũng trong
Nam có Lê Thương với bản nhạc Bà Tư bán hàng có bốn người con. Ḥa
B́nh 48, Đốt hay không Đốt, Trần Văn Trạch với Cái đồng hồ, Chuyến xe
lửa mùng Năm và Nguyễn Đức Quỳnh với Người Việt đáng yêu.
Và tên Ḥang Trọng Miên với vở kịch Dưới Bóng Thánh Giá ? Đ̣an Văn
Cừu th́ sau nắm đài phát thanh Sàig̣n.
Và Có ai nghĩ rằng, theo Phạm Duy, Ḥang Thi Thơ từng làm việc ở ṭa báo Cứu
Quốc và điều khiển một ban Văn nghệ lưu động? Cũng không ai nhắc tới Mai
Thảo, Tạ Tỵ. Có ai nghĩ rằng Minh Đức Ḥai Trinh, thời con gái, mê theo
tiếng gọi cụ Hồ vào Thanh Hóa, gặp tướng Nguyễn Sơn, rồi cũng ra Phát Diệm,
bị cha mẹ bắt về để lấy Phan Văn Giáo?
Chưa kể những gương mặt chính trị trổi bật thời Đệ nhất Cộng Ḥa đă từng đi
theo kháng chiến như quư ông luật sư Trần Chánh Thành (bộ trưởng thông tin
thời TT Ngô đ́nh Diệm), Lê Khải Trạch, Đinh Sinh Pài, người đă từng họat
động với tướng Nguyễn Sơn và Đặng Thái Mai trong khu 4. Ḥang Văn Chí cũng
từ khu bốn ra, tác giả cuốn sách nổi tiếng Trăm hoa đua nở trên đất Bắc.
Cuốn sách cho thấy chính thể Hà nội đàn áp và trù dập giới văn nghệ sĩ như
thế nào[4]
Với sự chứng dần một số những nhân vật tên tuổi đă từng tham gia và họat
động cho kháng chiến, trở về cộng tác với chính quyền Quốc Gia, tôi nghĩ
rằng, việc gán cho Phạm Duy phản bội kháng chiến của anh Nguyễn Trọng Văn
khó có cơ đứng vững được.
Nhận xét một số thực tế sau đây càng cho thấy, sau khi chiến tranh Việt-
Pháp bùng nổ, có đến hằng triệu người phải sơ tán theo chính sách * tiêu khổ
kháng chiến* với cảnh vườn không nhà trống. Nhất là kể từ Thanh Hóa trở vào
phía Nam, nhiều vùng chỉ c̣n là đổ nát và hoang tàn. Và cũng hàng triệu
nhừng dân chúng các vùng ấy đă *hồi cư*.
Chuyện đó được coi là b́nh thường trong chiến tranh.
Nhưng đặc biệt, có rất nhiều dân chúng, trí thức, thành phần đảng phải,
chính trị gia đă sơ tán về vùng trái đệm Phát Diệm, c̣n gọi là an ṭan khu.
Có rất nhiều người đă dời bỏ kháng chiến hoặc chạy trốn Pháp về đây. Có tất
cả khỏang 60 ngàn người đủ thành phần đă tụ tập về Phát Diệm.
60 ngàn người tụ hội về đây đều là để chờ thời, để nghe ngóng t́nh h́nh và
nhất là chờ cơ hội *Dinh Tê*. Dinh tê, danh từ lần đầu tiên được xử dụng từ
chữ rentrer. Chữ dinh tê là để chỉ việc bỏ khu vực kháng chiến để về Hànội.
Phạm Duy cùng lắm cũng nằm trong số những người này.
Họ từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ra, tức là bỏ khu tư, bỏ kháng chiến? Và
cũng là trường hợp của Phạm Duy.
Nhưng phần đông họ từ Hà nội, từ Chợ Đại, Cống Thần ở Hà Đông vào (có thể là
đi buôn), hoặc từ Hải Pḥng đến bằng đường biển qua cửa Cồn Thoi, cửa ngơ
vào Phát Diệm. Hoặc từ Nam Định Bùi Chu, qua ngă đường sông như Yên Mô- Nho
Quan hoặc Cầu Lim- Gia Viễn.
Đó là những người chạy trốn Pháp.
Phát Diệm trở thành vùng an ṭan phi chiến- ít ra người ta có cảm tưởng như
thế- vùng trái đệm giữa vùng tề và kháng chiến, giáp ranh với liên khu 4 gồm
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh trải dài xuống tận khu B́nh Trị Thiên Nam Ngăi.
Để chứng tỏ Phát Diệm là nơi tạm trú cho những người trốn chạy cả hai phía
Tổng bộ (danh xưng gọi tổ chức của ĐC Lê Hữu Từ) đà bắt được một mật lệnh,
ngày 9-7-1947 của Việt Minh có câu:”dù có mất cả một đại đội cũng không
được đụng đến Phát Diệm”
[5].
Đó là về phía Việt Minh đối với Phát Diệm.
Việt Minh có hai cái lợi để không đụng độ trực tiếp với Phát Diệm.
Thứ nhất, v́ Phát Diệm là hậu cần cung cấp tất cả thuốc tây, dụng cụ, máy
móc, đá lửa, xăng dầu và đôi khi ngay cả súng ống từ bên Tầu. Đó là nguồn
cung cấp sống c̣n cho khu 4 của kháng chiến. Đường buôn lậu đi từ Hải Pḥng,
dùng thuyền buồm xuôi Phát Diệm, đến cửa Cồn Thoi, rồi từ đó xuôi Thanh Hóa,
vào khu tư.
Thứ hai, về mặt quân sự, Phát Diệm như cái hàng rào che chắn để bảo vệ an
ṭan khu tư trở vào. Chừng nào Phát Diệm c̣n có hai cái lợi thế như thế th́
Việt Minh c̣n để yên.[6]
1951, Phạm Duy giă từ kháng chiến. Có những gịot nước mắt nhớ tiếc dĩ văng
và cũng có giọt nước mắt vui mừng v́ nh́n thấy cái cái đồn bót phía Quốc
Gia. Vui mừng v́ biết rằng nay ḿnh được giải thóat.
Nếu những người này sau đó dinh tê về Hà nội, ta sẽ gọi họ là ai? Họ có khác
ǵ với Phạm Duy không? Thật không dễ để xếp lọai họ ?
Không lẽ chỉ v́ đổi vài lời ca mà kẻ th́ trở thành bội phản và kẻ khác
không?
Mặc dầu giải pháp double jeu đi đến thất bại, nhưng có một điều không thể
phủ nhận được là Phát Diệm là nơi trú ẩn an ṭan cho những người kháng chiến
cũ, cho trí thức và nhất là cho người của đảng phái. Không có Phát Diệm,
nhiều nhân vật đă có thể bị giam cầm, thủ tiêu và biến mất trên chốn dân
gian này rồi ? Làm ǵ c̣n những Ngô Đ́nh Nhu, Phạm Đ́nh Viêm, Phạm Đ́nh
Chương, Bùi Diễm, Trần Văn Chương, Nguyễn Tường Tam, Ḥang Bá vĩnh. Và giả
dụ họ bị Việt Minh thủ tiêu? Chính trường miền Nam đă hẳn là khác?
Đọc hồi kư do chính Phạm Duy viết, không có chỗ nào là bằng cớ cho thấy ông
gắn bó hay có ư gia nhập đảng Cộng sản? Và v́ thế, việc ông dinh tê là
chuyện b́nh thường như hàng ngàn, hàng vạn người khác.
.- Thứ nhất, có thể chỉ là lư do kinh tế. Đi theo cách mạng là đói.
Đói cho ḿnh và đói cho cả nhà. Đó là trường hợp 3 anh em trai bên vợ Phạm
Duy. Tác giả viết:” Chúng tôi có khỏang một tháng trời để nh́n thấy chung
quanh ḿnh có khá nhiều gia đ́nh đă *dinh tê*. Găp được những gia đ́nh bạn
như gia đ́nh Nguyễn Giao (bố vợ Ḥang Thi Thơ), gia đ́nh Đỗ Xuân Hợp, gia
đ́nh Đ̣an Châu Mậu.. là có ngay những vụ bàn bạc về việc rentrer: vào thành
hay rester, ở lại ? Ở lại, rester th́ không c̣n tiền để mua gạo mà ăn. Chưa
dám nói thịt cá đâu. Nhất là không có tiền mua thuốc men để chống đỡ với các
thần bệnh tật …. Trong ḷng day dứt v́ chuyện ”ai làm cho ai phụ t́nh ai” ?[7]
.- Thứ hai, theo Phạm Duy, Trung ương muốn khai tử bài Bên Cầu
biên giới của tác giả qua trung gian nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khóat nên ông
nổi giận và: ”Tôi thấy cách mạng bắt đầu lẩm cẩm khi kết án bài Vọng cổ
trong cái Đại Hội mà tôi vừa tham dự“. Và sau khi được gặp bác Hồ, Phạm
Duy đă không có một ấn tượng tốt đẹp ǵ về con người ấy và sau đó đi gặp
nhạc sĩ Khóat: ”Tôi tới gặp anh Khóat ngay và trả lời dứt khóat là tôi
xin trở về Thanh Hóa... Tôi rất cảm ơn mọi người, xin được không nhận bất cứ
một thứ ân huệ nào cả... Nhưng khi vợ chồng tôi tới chào người lănh đạo văn
nghệ của cả nước th́ Tố Hữu tặng vợ chồng tôi một số tiền. Tôi nhận ngay v́
đó là tiền lương và văng phí.[8]
Cuộc chia tay kháng chiến đơn giản chỉ có vậy.
.- Thứ ba, Phạm Duy đâu phải lọai người ngu ngơ khờ khạo. Trong buổi
tham dự Đại Hội Văn Hóa tổ chức tại trường Cao Đẳng, có chủ tịch Hồ Chí Minh
đọc diễn văn, ông viết: ”tôi cũng rất sung sướng được nh́n thấy những
thần tượng văn nghệ của tôi. Nhưng tôi lấy làm lạ, tự hỏi thầm tại sao nhóm
Tự Lực Văn Đ̣an lại vắng mặt? Câu hỏi lớn đấy nhé. Sau đó c̣n thấy sự
chống đối của Nguyễn Đức Quỳnh Khi Xuân Diệu bắt đầu bằng câu nói: Thưa
các đồng chí. Nguyễn Đức Quỳnh đứng dạy nói: Tôi không phải là đồng chí của
các anh. Xuân Diệu có vẻ hơi lúng túng rồi trả lời: Chúng tôi không cần
những đồng chí như anh.
Tôi cũng thấy được sự tranh chấp bạo động như vụ bắt cóc rồi giết nhau ở
phố Ôn Như Hầu hay là vụ Việt Minh tiêu diệt các đảng phái ở các tỉnh. Khi ở
trong Nam, tôi đă thấy các đảng phái như Cao Đài, Ḥa Hảo, Đại Việt dự định
bắt Trần Văn Giầu và nhóm Việt Minh. Nhưng Dương Văn Giáo ngăn cản để giữ
t́nh đ̣an kết. Sau này, chính Dương Văn Giáo bị Việt Minh giết.
V́ thế, tôi không có ư muốn trở thành một cán bộ Việt Minh ở Hà nội...[9]
Kể như đă rơ ràng, đi theo kháng chiến, nhưng thấy Việt Minh phản bội lại
những người yêu nước khác, như giết người của đảng phái. Phạm Duy đă có thể
thất vọng về kháng chiến và v́ thế dinh tê là điều khó có thể chê trách
được.
Và giả dụ rằng, cái đám dinh tê sau này thắng trận th́ chữ phản bội c̣n có ư
nghĩa ǵ? Cuối cùng, kẻ thắng là kẻ tự mang chính nghĩa về phía ḿnh, nói
sao chả được.
-. Thứ tư : Xét đến số lượng các bản nhạc Phạm Duy làm trong thời kỳ
kháng chiến, xét đủ lọai từ Nhạc hùng, Nhạc t́nh, quân ca kháng chiến đến
dân ca kháng chiến trên dưới gần 50 bài, tôi nhận ra những bài nào có danh
từ dính dáng trực tiếp đến Việt Minh như cụ Hồ, đồn Tây, Vệ Quốc Quân th́
ông đă đổi lời.
Có bao nhiêu bản như thế ? Thực sự không có bao nhiêu? Chỉ có vài bài tất cả
theo cách lư giải của tôi. Chắc là không hơn. Nguyễn Trọng Văn đă khám phá
ra điều này cũng đă là hay lắm. Nhưng chưa đủ yếu tố thuyết phục độc giả
nghĩ rằng Phạm Duy là kẻ phản bội.
Hơn nữa, giá trị một bản nhạc hay là chính ở cái hồn của bản nhạc ấy th́ vẫn
được giữ nguyên. Có cụ Hồ hay không có cụ Hồ, tự nó bản nhạc vẫn hay. Nhạc
kháng chiến của Phạm Duy là hay, là thấm thía, là chia sẻ th́ vẫn được người
nghe tán thưởng.
Cũng đừng quên một điều, khi nghe một bản nhạc hay, người nghe để cái cảm
quan nghệ thuật lấn lướt những tiểu tiết thay đổi từ mà Nguyễn Trọng Văn nêu
ra. Theo tôi, trừ tên Hồ Chí Minh cần phải đổi. Những từ như giặc Pháp, đồn
tây, anh vệ quốc quân, không đổi cũng không sao. Bằng chứng, ở miền Nam,
chúng ta vẫn nghe nhạc Văn Cao, vẫn đọc văn Nguyễn Tuân thời tiền chiến có
sao đâu? Nguyễn Văn Trung có lần viết rằng sau 1975, tại Vũng Tầu, loa phóng
thanh oang oang bài Anh Quốc ơi, Anh Quốc ơi của Phạm Duy? Thật là buồn
cười, nhưng hiểu được. Bài đó có thể hay và người ta chẳng cần biết anh Quốc
là anh nào nữa ?
Kết luận cho thấy phải chê ngược Phạm Duy đáng nhẽ không nên đổi từ th́ ông
đă đổi. Nguyễn Trọng Văn ngầm phê phán thái độ trở cờ, bỏ kháng chiến của
Phạm Duy, th́ những người khác lại thấy sự trở cờ đó là b́nh thường.
Khác nhau là chúng ta đứng ở vị thế nào để nh́n vấn đề, để phê phán ?
2.- Phạm Duy chết ở một nơi nào khác ?
Tài vay mượn hay cảm hứng của người nghệ sĩ ?
Mỗi bản nhạc của ông là một tổng hợp hay một cộng lại những văn ảnh, những
âm thanh, âm điệu, những ca từ rút ra từ các bài thơ, hoặc rút tỉa từ các
câu ḥ, điệu hát của dân ca ba miền, ngay cả những điệu hát của người dân
miền sơn cước, từ các vần điệu đă có sẵn, các văn ảnh quen thuộc như con
trâu, cái cầy, đồng lúa xanh, người mẹ quê. Chính nhờ sự pha trộn, thu nhặt
đó mà nhạc Phạm Duy rất gần gũi, ăn khách và được đón nhận một cách nồng
nhiệt.
Chẳng hạn, trong bài Tiếng Hát trên Sông Lô, theo như sự nh́n nhận của ông,
ông đă cảm hứng và vay mượn từ hai câu thơ Đường quen thuộc:
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn
[10]
Hai câu thơ Đường trên váng vất trong bài tiếng sông Lô của Phạm Duy đă trở
thành: Thuyền tôi buông lái như xưa, hoặc Thuyền tôi đậu bến Tuyên
Quang và nhất là Thuyền tôi đậu bến Đoan Hùng. B́nh minh nghe tiếng
chim mừng líu lo.
Trong mấy câu trên, người ta thấy từ Vần điệu, âm thanh bằng trắc bổng trầm
sao giống nhau thế? Thật là tài cái tài bắt chước và nhái lại của Phạm Duy.
Giữa: Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hán Sơn và B́nh minh nghe tiếng chim
mừng líu lo sao mà sít sao thế. Giống mà không giống. Nửa đêm đổi ra
thành b́nh minh. Tiếng chuông chùa đổi ra tiếng chim mừng.Thật là tài cái
tài bắt chước và nhái lại của Phạm Duy.
Cũng theo Phạm Duy, 10 bài tâm ca, 10 bài đạo ca ít ra bắt nguồn từ con số
10 của Mười điều tâm niệm của Ḥang Đạo. Sự liên hệ ư tưởng
(associations des idées) đó đă trở thành nguồn cảm hứng âm nhạc bắt đầu từ
con số 10. Tại sao không 13 hay 35 mà lại 10 ?
Và từ dấu mốc này, tôi dám đặt câu hỏi nghi vấn, không phải về nhạc tính, mà
về một số từ rất rất Trịnh Công Sơn, một số ư hướng rất TCS như các từ
Gia tài, tuổi nọ tuổi kia vv.. Uớc mơ (thơ Nhất Hạnh), để lại và
những ư hướng về cái chết, về chiến tranh, về trẻ thơ vv.. trong các bài Tâm
Ca, Đạo ca của Phạm Duy
Lẽ d́ nhiên, Phạm Duy không bao giờ nh́n nhận có một ảnh hưởng như thế trên
sư nghiệp sáng tác của ông. Và chắc hẳn những bản nhạc đó đă bắt nguồn từ
những cảm hứng tâm linh, từ những khát vọng sâu thẳm của cơi người hay thân
phận người xuất phát từ những t́nh trạng bi kịch của đất nước. Chính từ
những chỗ ấy đánh động tâm tư, khơi dạy những thao thức của tâm hồn nghệ sĩ
và từ đó sản sinh ra những ḍng nhạc khá là tuyệt vời.
Người nghe nhạc khi thưởng thức nhạc Phạm Duy, đôi khi bắt gặp những âm
hưởng quen thuộc đă bắt gặp ở đâu đó rồi hoặc bắt gặp một con chữ nào đó vv.
Có thể một cách vô t́nh và vô thức, Phạm Duy có cùng những cảm thức, cùng
những rung động đă nhập vào ông. Nhất là trong những bản nhạc phản chiến,
những bài tâm ca và đạo ca. Chữ nghĩa ấy vào tay Phạm Duy trở thành một con
chữ sống động, hiện sinh, như thể có một linh hồn. Vốn nguyên liệu ṛng đă
có, Phạm Duy chuyển tải tài t́nh cái vốn đó thành vốn của ḿnh một cách
chẳng kém tài hoa.
Thôi th́ cứ cho rằng tài hoa bắt gặp tài hoa. Nhưng trong nghệ thuật văn
chương hay âm nhạc th́ trước sau thiên tài hay không vẫn là ở chỗ sáng tạo,
chỗ khởi đầu. Ớ chỗ này, bất cứ ai cũng phải nh́n nhận rằng TCS sáng tạo ra
ngôn ngữ, thổi vào chữ nghĩa một sự sống, một linh hồn.
Hơn bất cứ ai hết, TCS cùng một lúc sáng tạo ra ngôn từ và ḍng nhạc quyện
vào nhau, gắn bó tuyệt vời. Đó là một thứ phù thủy trong ngôn ngữ, thổi vào
đó một sự sống?
Trong khi đó, phần lớn âm nhạc của Phạm Duy là vay mượn thơ văn của các thi
sĩ khác.
Công của ông là phổ nhạc. Phần kia là của các nhà thơ. Về điểm này, tôi cũng
đặt câu hỏi phần vinh danh mà ông được thụ hưởng th́ trong đó có bao nhiêu
phần đóng góp âm thầm của các nhà thơ được chia sẻ cái vinh danh đó? Chỗ nào
cho Nguyễn Bính, Nhất Hạnh, Phạm Thiên Thư, Linh Phương, Ngô Đ́nh Vận, Hữu
Loan, Lê thị Ư, Phạm Lê Phan, Phạm Văn Bính, Hoa Đất Nắng, Lưu Trọng Lư, Huy
Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ, Hàn Mạc Tử, Bích Khê, Đỗ Quư Ṭan, Nguyễn Tất Nhiên,
Thanh Hữu, Du Tử Lê, Cung Trầm Tưởng, Ḥai Trinh, Hồng Nam tức Hô Hán Sơn,
Guillaume Apolinnaire. Và người chỉ c̣n có cái bị thằng ăn mày như Bùi Giáng
cũng bị mượn đỡ bài Gái lội qua khe cho những bài Tục ca của Phạm
Duy.
Kết luận về phần này th́ chúng ta phải thừa nhận rằng vay mượn và cảm hứng
đưa đến những bản nhạc để lại cho đời đến như Phạm Duy th́ kể là kỳ tài.
Kể là có một không hai.
Nhưng tôi nhận ra một điều thấy cần được nói ra và có thể nhiều người cũng
biết như thế. Có nhiều bài do chính ông viết lời như bài Đêm xuân,
tại Chợ Neo, Thanh Hóa ghi lại mối t́nh với Thái Hằng. Hay bài Cành Hoa
trắng, Thanh Hóa, 1950 hay bài Gánh lúa, rất nổi tiếng, trước khi
dinh tê. Điều đó không có ǵ để nói nữa.
Có bài mượn lời từ thi sĩ ngọai quốc, như Mùa thu chết mượn thơ của
thi sĩ Guillaume Apollinaire ông cũng cẩn thận ghi bên dưới như: theo thơ
Guillaume Apollinaire, Sàig̣n 1970.
Xem lại những bài ông trích đăng lại trong Ngàn lời ca của ông.Trừ
một vài trường hợp khá đặc biệt như bài Nhân danh, ghi theo thơ Tâm
Hằng, bài Bi Hài kịch, theo thơ Thái Luân, Đi vào Quê Hương,
theo thơ Hoa Đất Nắng (Cả ba bài này đều ít ai biết tới), Kỷ vật cho em
thơ Linh Phương,, Khi tôi về, Khi tôi về, theo thơ Kim Tuấn,
Tửởng như c̣n người yêu, thơ Lê thị Ư, Áo anh sứt chỉ đường tà,
thơ Hữu Loan. Tôi ước mơ, thơ Nhất Hạnh, bài Để lại cho em,
một câu thơ của Nguyễn Đắc Xuân..
Vài trường hợp họa hiếm. C̣n những trường hợp khác th́ không được ghi đầy
đủ. Và đấy chỉ là ghi lại trong Ngàn lời ca của Phạm Duy sau này như
một lọai sách sử âm nhạc. Nhưng tôi không đủ điều kiện để t́m hiểu xem, khi
được ấn hành thành bản nhạc, được in ấn hồi trước 1975, được bán ở các vỉa
hè Sàig̣n, tên các thi sĩ được Phạm Duy phổ nhạc có được ông trân trọng ghi
đầy đủ trên các bản nhạc hay không? Ở Hải ngọai th́ tôi được biết có một số
bản nhạc được in lại có ghi đầy đủ tên thi sĩ và tên nhạc sĩ? Nhưng điều đó
có chắc rằng, ṭan thể các bản nhạc của Phạm Duy in ấn trước 1975 đều có đề
tên các thi sĩ?
Việc phổ nhạc thơ là một hiện tượng phổ biến trong sinh họat văn hóa miền
Nam trước 1975. Trong một bài phỏng vấn Du Tử Lê của Cỏ Ngư trên Talawas,
ngày 5-5-06, Du Tử Lê cho biết có hơn 300 bài thơ của ông đă được phổ nhạc
mà theo ông:” Đó là chưa kể có những nhạc sĩ lấy thơ của tôi, không chỉ
là cái ư, mà cả câu thơ, nhiều câu thơ làm thành ca khúc mà không hề đề cập
đến tên tôi, dù chỉ là hàng chữ “ư thơ” thôi cũng không có. Thậm chí, có báo
chí nêu đích danh bài thơ ấy, bản nhạc ấy, nhạc sĩ ây. Nhưng người nhạc sĩ
này vẫn lờ đi..”
Riêng trường hợp Phạm Duy, Du Tử Lê có tiết lộ PD có phổ nhạc bài thơ
”Kiếp sau, xin giữ lại đời cho nhau” vào năm 1967 ǵ đó. Rất tiếc, dù đă
t́m kỹ, tôi cũng không t́m thấy bài hát này.
Nhưng điều tôi có thể chắc chắn là trong Ngàn lời ca, các thi sĩ Việt
Nam th́ hầu như Phạm Duy đă không nêu tên các thi sĩ, tác giả các lời ca của
bản nhạc. Ông có cố t́nh quên tên họ không? Trong khi đó, ông ghi rất kỹ
thời gian sáng tác một bản nhạc? Chính v́ thế sau này đă xảy ra trường hợp
nhà thơ Hữu Loan bày tỏ công khai nỗi bực dọc ấy? Có một trường hợp mà tôi
biết khá rơ về bốn bài thơ của Nguyễn Tất Nhiên, một thi sĩ trẻ ở Biên Ḥa.
Đó là những bài Thà là giọt mưa, Hai năm t́nh lận đận, Cô Bắc Kỳ nho nhỏ,
Hăy yêu chàng và Vái trời. 5 bài thơ này đă là nguyên do có sự
kiện tụng giữa nhà thơ và Phạm Duy. Về phần Nguyễn Tất Nhiên, dĩ nhiên, cậu
thanh niên chưa quá 20 tuổi phải hănh diện v́ thơ được nhạc sĩ Phạm Duy phổ
nhạc. Về phía Phạm Duy chắc cũng hiểu cái t́nh huống như thế nên ông nói:
Thơ được Phạm Duy phổ nhạc là may phúc lắm rồi. Cho đến lúc bản nhạc
được thương mại hóa th́ Nguyễn Tất Nhiên... đ̣i tiền. Kể từ đó về sau, PD
không lấy thơ Nguyễn Tất Nhiên phổ nhạc nữa.
Tôi đă thử t́m trong Ngàn lời ca để xem ông có ghi lại năm bài nhạc,
có thơ của thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên không? Tôi đă không t́m thấy bài nào
trong năm bài ấy?
Chỉ được nhắc tới trong phần mục lục thôi. Phải chăng, do cái giận một thằng
nhóc con muốn đ̣i tiền và kiện ông mà Phạm Duy đă cố t́nh bỏ quên Nguyễn Tất
Nhiên? Thật ra cái tính của Nhiên là thế. Sau này, khi gửi các bài thơ của
thi sĩ trên tập san Hợp Lưu, anh cũng có thói quen đ̣i chủ bút Khánh Trường
phải trả tiền nhuận bút. Ai viết cho Hợp Lưu nghe chuyện đó cũng phải bật
cười. Chủ bút KT đă trả tiền nhuận bút v́ thương bạn. Bởi v́, tờ báo ai đă
cộng tác viết bài đều biết tập san nghèo quá, ai dám nghĩ đến tiền nhuận
bút. Nhận được một số báo mỗi kỳ đă là một niềm vui rồi v́ tờ báo quá đẹp,
trang nhă, bài viết có chất lượng. Cầm số báo HL như cầm một cuốn sách. Và
theo anh Khánh Trường, Nguyễn Tất Nhiên là người duy nhất trong số các tác
giả viết bài cho Hợp Lưu được trả tiền nhuận bút.
Nhưng được biết đến lúc nhà thơ này từ giă cơi đời th́ PD cũng nằm trong số
những người đến tiễn đưa anh về thế giới bên kia.
Phạm Duy đă kể lại trong Ngàn lời ca về người bạn t́nh của ông, Alice, con
gái của một người t́nh cũ của ông ở Phan Thiết là Hélène, Alice đă làm đến
300 bài thơ tặng ông và đă là nguồn cảm hứng cho Phạm Duy viết phổ nhạc.
Khởi đầu là Thương T́nh ca với những giai điệu :”
D́u nhau đi trên phố vắng
D́u nhau đi trong ánh sáng
Dắt hồn về giấc mơ vàng
D́u nhau đi chung một niềm Thương
Và tiếp nối là Ngày đó chúng ḿnh, Đừng xa nhau, Kiếp nào có yêu nhau
(Thơ của Ḥai Trinh ). Bài này của Ḥai Trinh có in lại trong một băng
nhạc ở Hải ngọai, thấy có đền tên tác giả là Ḥai Trinh.
Tôi không thấy ông đề tên Alice trong những bản nhạc t́nh có thể nói là
tuyệt vời ấy trong Ngàn lời ca? Thật là đáng tiếc.
Nhân tiện đây, phải nói rằng nhạc t́nh của Phạm Duy quả là tuyệt vời. Đầy
cảm tính. (sentimental). Và chỉ có một người sau này có thể qua mặt ông là
Trịnh Công Sơn với nhạc t́nh đầy năo tính (cérébral) (Chữ của Phạm Duy). Và
có những người trẻ tuổi đă chẳng ngại ngùng viết: “Với tôi, chiều sâu của
Phạm Duy là chiều sâu của vực thẳm không đáy, đỉnh cao là đỉnh cao của ngọn
trời và kích thước thứ ba là chiều ngang của không gian vô tận”
Xin trích dẫn một đôi câu nữa để chúng ta cùng say sưa ngậm ngùi:
Ngày đó có bơ vơ lạc về trời
T́nh trên mây xa khơi có áo dài khăn cưới
Ngày đó có kêu lên gọi hồn người
Trùng dương ơi, Có sót sa cũng ḥai mà thôi
Và để nghe Thái Thanh nức nở một lần nữa thơ của Ḥai Trinh, phổ nhạc là của
Phạm Duy:
Đừng nh́n em nữa anh ơi..
Kiếp nào có yêu nhau, th́ xin t́m đến mai sau..
Alice đă không có một chỗ đứng đáng nhẽ phải có, đáng nhẽ phải dành cho cô?
Không thể quên như thế được.
Nhưng dưới mắt Phạm Duy: Phổ nhạc là chắp cánh cho thơ bay cao.
V́ thế, họ bị bỏ quên cũng thật là dễ hiểu, v́ ai đă chắp cánh cho họ?
Những người đó ít hay nhiều cũng làm nên vóc dáng Phạm Duy. Có thể, nhờ nhạc
sĩ mà bài thơ đi xa hơn nữa. Nhưng dù muốn, dù không vẫn là mượn thơ của thi
sĩ. Họ đă chẳng có một vị trí xứng đáng trong gia tài âm nhạc của họ Phạm.
So ra những người t́nh của Trịnh Công Sơn may mắn hơn nhiều, vinh dự hơn
nhiều, đi vào những thiên t́nh sử của một nhạc sĩ tài hoa có một không hai.
Những Diễm.. và cuối cùng đến Hồng Nhung.
Hăy khoan nói đến chuyện tiền bạc. Hăy trả lại lẽ công bằng về cái thẩm
quyền tinh thần, về những sản phẩm trí tuệ ấy.
Tôi vẫn cảm thấy tức anh ách khi viết những ḍng này, nghĩ tới Alice, Huy
Cận trong Ngậm ngùi và bao nhiêu thi sĩ khác.
Phải chăng chính ở điểm này mà Nguyễn Trọng Văn nên dùng bút để giết chết
Phạm Duy?
3.- Phạm Duy của nhiều khuôn mặt
Ngay từ hồi trước 1975, tôi đă nghĩ rằng Phạm Duy là người bất nhất, tham
lam, chụp giựt, tính cơ hội trong những sáng tác nhạc của ông. Các chủ đề
sáng tác của ông, mặc dầu trải dài suốt hành tŕnh nhân thế’ của ông, bám
sát vào những biến cố của thời cuộc, của đất nước cho thấy nó quá đa dạng,
trái khóay, thiếu cân xứng, thiếu liên tục nhất quán. Nghe những bản nhạc
ấy, nhiều khi không khỏi ngỡ ngàng, thấy lạ, thấy kỳ dị và cảm giác quan
trọng là thấy có ǵ đó không ổn. Có thể gọi đó là một thứ sincérité
instantannée, thành thật nhất thời cảm hứng nhất thời, xung động nhất
thời (émotion primaire)
Cảm hứng nhất thời đó cũng giống như một thanh niên lăng tử, ham vui, chóng
chán. Khó có cái ǵ đọng lại, kết tinh, có chiều sâu, có âm hưởng. Đó là thứ
nhà văn không có style, nhạc sĩ không có nét nhạc, thiếu cá tính, họa sĩ
thiếu gam mầu.
Đối với một người như TCS, ta chỉ cần nghe một điệu nhạc, bắt ngay được cái
hồn tính của điệu nhạc ấy và biết ngay là Trịnh Công Sơn. Nó có một cái duy
nhất, cái độc đáo, cái làm nên thế giới âm nhạc ấy. Cũng vậy, xem tranh phố
cổ của Bùi xuân Phái quen thuộc, lướt qua cũng nhận ra gam mầu trong tranh
rất xanh nhạt, xám nhẹ, gợi nét buồn với h́nh ảnh những căn nhà, trống vắng,
trơ chọi.. Họa sĩ nổi danh với hai chữ phố phái, một đặc sủng trong tranh
Bùi Xuân Phái cũng nhờ ở chỗ có cái đồng nhất thể, cái thể tính của tranh vẽ
phố cổ của ông. Trông là biết, là nh́n nhận ra tác giả.
Phạm Duy trái lại đưa người nghe nhạc ông từ thái cực này đến thái cực khác,
hay dở lẫn lộn, pha chế, dửng mỡ, thô tục, thanh cao, ngậm ngùi, thiết tha,
xót xa, rẻ tiền, vay mượn lung tung, chắp vá tùy tiện.
Có vẻ trong sáng tác, lúc nào ông cũng tham lam, muốn thay đổi, muốn cái lạ,
cái mới theo cái kiểu tiện đâu hay đấy, theo cái kiểu có tiền th́ làm. Đôi
khi không khỏi làm người nghe khó chịu và bực dọc.
Sáng tác nhiều nhất so với các nhạc sĩ khác. Nhưng dở cũng không ít.
** Giai đọan kháng chiến ca
Dành cho giai đọan này, ông có trên dưới 50 bài. Nhưng chỉ độ 10 bài nay c̣n
được nhắc nhở tới. Bài phổ nhạc đầu tiên Cô Hái mơ, phổ thơ Nguyễn
Bính, 1942. Cũng là hay, nhưng khó có thể so b́ với Con thuyền không bến
của Đặng Thế Phong và Buồn tàn thu của Văn Cao. Mà Đặng Thế Phong
sáng tác nhiều nhặn ǵ cho cam? Nhạc của Đặng Thế Phong dù ít, nhưng bài nào
cũng hay. Ít mà tuyệt vời. Những bản nhạc hùng của Phạm Duy trong thời kỳ
kháng chiến th́ may mắn c̣n được quân đội VNCH xử dụng như các bản quân hành
như Xuất Quân, Nào bao hùng binh tiến lên.. Chiến sĩ vô danh,
Đường về quê, Khởi hành …
Trong số đó, vài ba bài dân ca kháng chiến thật hay và ngậm ngùi như Nhớ
người Thương binh, Ru con, và Nương chiều. Đó là những bài ca với những
h́nh ảnh quen thuộc như mẹ già, con thơ, vợ hiền và được nhiêu người ưa
thích.
Ít ra, trong giai đọan này, người ta c̣n nhận ra được tính thuần nhất trong
chiều hướng sáng tác của người nghệ sĩ. Mặc dầy vậy, nhiều bài nay không một
ai biết đến nữa v́ tính tham lam, viết dễ của tác giả như các bài Quân Y
ca, Thiếu sinh quân, Ngọn trào quay súng, Một viên đạn là một quân thù. Đ̣an
quân Văn hóa.
Tham lam. Đó là cái dở nhất của Phạm Duy. Đó là cái giá phải trả dành cho
những bản nhạc bị bỏ quên mà cũng dành cho chính tác giả. Có đến 3 phần tư
những bản nhạc của Phạm Duy sau này đă không ai biết đến nữa.
** Giai đọan 20 năm miền Nam.
Đây là một thời gian dài đánh dấu sự thành công của Phạm Duy. Thành công của
ông bắt đầu với ban Hợp ca Thăng Long trên đài Pháp Á, từ 1951. Tới 1955,
thời ông Diệm đổi là Đài phát thanh Quốc Gia. Với những tên tuổi như Ḥai
Trung (Phạm Đ́nh Viêm) Ḥai Bắc (Phạm Đ́nh Chương), Phạm Duy, Thái Hằng và
Thái Thanh (Băng Thanh). Với những bài ca khá tuyệt vời như T́nh Ḥai
Hương, Tôi yêu tiếng nước tôi (1953).
Ban Hợp ca Thăng Long
Ban Hợp ca Thăng Long nổi như cồn. Có thể so sánh nó giống như Sáng Tạo
trong văn học với Mai Thảo. Nhạc với Phạm Duy, với ban Hợp ca Thăng Long.
Văn với Mai Thảo với tạp chí Sáng Tạo. Cả hai là những đặc sản miền Bắc mang
vào như trái cây đầu mùa ở miền Nam lúc ấy ?
Những bản t́nh ca tuyệt vời cũng hầu hết được sáng tác trong giai đọan này
đă đưa ông lên cao, cao thật cao.
Trường ca Con đường cái quan
Cạnh đó là Hai bản Trường ca: Con đường cái quan và Mẹ Việt Nam. Hai
trường ca này làm nên vóc dáng Phạm Duy. Bản trường ca nói đến người lữ
khách lên đường, đi từ Bắc vô Nam.
Về nội dung, nó nói lên được t́nh tự dân tộc, tấm ḷng yêu quê hương đất
nước mỗi lần tác giả dừng chân tại mỗi miền. Những câu ḥ, câu ví của dân ca
ba miền được nhắc nhở đến với những địa danh như Thăng Long, Tháp rùa, ải
Chi Lăng, Phố Kỳ lừa. Tạ Tỵ đă nhận xét: ”Suốt chuyến đi, xuyên nửa quê
hương, Duy đă xúc động và nhận diện được chân dung quê hương qua tri giác
tinh tế của một nghệ sĩ đă gần 40 tuổi đời”
[11]
Nhưng về h́nh thức, theo dơi ṭan bộ bài hát th́ thấy mệt, chán, dài lê thê,
cóp nhặt âm hưởng của từng vùng. Nó là một thứ lắp ráp chưa khéo. Tách ra
từng đọan, từng phần th́ có phần hay. Những phần đọan hay thường được giới
thanh niên hát trong các sinh họat giới trẻ và nhất là trong những đ̣an du
ca của giới sinh viên học sinh.
Phần tôi, tôi không thích mà có thể nhiều người cũng không thích. Đă thế,
ông xử dụng các câu ḥ, câu ví như thể là chính ông sáng tác. Không lạ ǵ,
nhiều người đă đồng hóa Phạm Duy vào dân ca đó như thể là của chính ông sáng
tác
Nhạc sĩ Lê Thương khi trả lời Vũ Bằng đă nói: ”Những bài như Con đường
cái quan hơi dài quá, điệp ư nhiều, có nhiều đọan lại tham lời, tham ư quá,
chẳng khác người mới làm văn không chịu lựa chọn những ư đặc biệt, những tư
tưởng độc đáo để diễn tả, trái lại ư nào cũng thích, tư tưởng nào cũng ham,
nhất nhất thu cả vào bài văn của ḿnh, làm cho độc giả coi mà mệt, do đó
sinh ra ngán ngẩm
[12]”
Và một tiếng nói nữa của Trần Văn Khê nhận xét về hai bài hát về miền Nam
Cửu Long Giang và Nhờ gió đưa về như sau: ”Tôi nghĩ có lẽ Phạm Duy cho rằng
miền Nam chịu ảnh hưởng Âu Châu rất nặng nề là khi đến miền Nam người lữ
khách đi thời xưa đàn ngày nay, đàn mà nhạc Việt ảnh hưởng Âu Châu rất
nhiều, nên hai bài hành khúc, không c̣n dân tộc tính của nhạc Việt nữa ….
Riêng đối với tôi, những câu nhạc nửa Âu, nửa Á, nửa Mỹ, nửa Việt Nam làm
tôi tiếc người nhạc sĩ sáng tác hai phần đầu, người nhạc sĩ đă đem dân ca
lên một mức khá cao để rồi phụ bạc dân ca trong phần chót nhạc phẩm“
[13]
Dân ca, Tâm ca, Đạo ca, tục ca …
Dân ca có nghĩa là gia tài chung của mọi người, không ai là tác giả, hay chỉ
là vô danh. Vậy mà Phạm Duy đă mượn ư, mượn lời, rồi coi như của ḿnh. Nhiều
người như các quư ông Nguyễn Hữu Ba, Trần Văn Khê đă có nhận xét rơ ràng về
vấn đề này và yêu cầu ông sửa lại. Riêng Nguyễn Trọng Văn, thẳng thừng và
khó tính hơn coi như một thứ ăn cắp không hơn, không kém. Nguyễn Trọng Văn
đà nhận xét khá nặng nề như sau: ”Ng̣ai thái độ lấy gia tài chung của dân
tộc làm gia tài riêng của ḿnh, lấy vinh dự của dân tộc làm bậc thang cho
riêng ḿnh, việc xử dụng trường ca cũng bị chỉ trích
[14]
Khó có thể chấp nhận được tính nhập nhằng của ông. Ông đă nhập nhằng không
để tên các bài phổ nhạc của các thi sĩ. Bậy lắm. Không thể làm thế được. Đề
thêm tên tác giả, bản nhạc có thể v́ thế mà mất gá trị đâu?
Nay lại nhập nhằng trong dân ca?
Trong việc sáng tác của ông đa dạng về thể lọai, c̣n đa dạng về đề tài.
Phong phú, nhưng trùng lâp. Mâu thuẫn và không hợp lư. Các đề tài trong nhạc
của Phạm Duy được ông thay đổi như chong chóng, nhảy từ lănh vực này sang
lănh vực khác. Mỗi lần thay đổi th́ ông lại giải thích thế này, thế nọ.
Nhưng nghe không lọt tai tư nào.
Nó có vẻ tùy tiện, tùy cơ hội đưa đến. Nó không phải là những điều ông ấp ủ,
xuất phát từ tim óc? Ít lắm, ông cũng phải trung thành với chính ḿnh, trung
thành với những điều ông ấp ủ. V́ không thể ấp ủ nhiều thứ cùng một lúc
được. Vừa mong chấm dứt chiên tranh, vừa phản chiến, vừa hiếu chiến ?
Vào năm 1965, ông bắt đầu viết tâm ca. Ở thời điểm đó, viết tâm ca là có thể
hiểu được, v́ đúng thời điểm. Có vẻ thời thượng nữa. Mức độ gia tăng chiến
tranh đến chóng mặt với sự tham dự trực tiếp của người Mỹ vào miền Nam. Tâm
trạng chán ghét chiến tranh, mỏi mệt, thiếu chính nghĩa đă mỗi ngày một rơ
mặt. Những người Thanh niên trẻ như Trịnh Công Sơn đă góp mặt và đă để lại
những dấu ấn rơ nét qua những văn ảnh về bom đạn, xác người, quê hương rách
nát.
Phạm Duy đóng góp bằng 10 bài Tâm ca, phổ thơ Nhất Hạnh. Trong 10 bài Tâm
ca, có hai bài thật tiêu biểu như Tôi ước mơ, Gịot mưa trên lá. Theo
Phạm Duy, bài Tôi ước mơ, ông chỉ làm trong 15 phút va ṭan bộ 10 bài
sọan trong một tuần. Những bài thơ đó thể hiện được t́nh tự nhân lọai, con
người với những khát vọng, những ao ước ra khỏi cuộc chiến tranh này. T́nh
con người, t́nh tự nhân lọai thấm nhuần tư tưởng triết học, tôn giáo như ḥa
trộn vào nhau.
Nhưng tôi có cảm tưởng, ông đà không chuyên chở nổi thơ Nhất Hạnh. Âm nhạc
Phạm Duy chưa tới. Thơ ở tầm cao mà nhạc không với tới. Người hát là giọng
ca Thái Thanh, tuyệt vời trong Ngh́n Trùng xa cách lại tỏ ra khiên
cưỡng đối với những bài tâm ca này. Giọng hát đanh quá, chát chúa, sắc quá
khi lên cao giết chết cái hồn tính trong Giọt mưa trên lá. Nhạc không
tới, giọng ca không thích hợp đă tự hủy tâm ca của ông và dĩ nhiên thơ của
Nhất Hạnh nữa. 10 bài tâm ca này, nay không thấy bài c̣n được nghe ai hát
nữa?
Cũng có một số phản ứng của vài trí thức khuynh tả thời đó, Lư Chánh Trung,
trên Bách Khoa gọi Tâm ca là ảo tưởng, v́ tiếng hát to (trong tâm ca
số 2) không thể nào to hơn súng nổ bên bờ ruộng già. Nguyễn Văn Trung th́
cho Tâm ca là mê hoặc v́ không thay thế được tư tưởng chính trị để
dẫn tới một tranh đấu chính trị.[15]
Không nói tới vấn đề Phạm Duy chỉ sáng tác trong 15 phút. Đó là việc của
ông. Nhưng chính bản thân người nghệ sĩ chưa trang bị đủ cái Spiritualité,
để đi vào cái hồn, cái linh thiêng ḥa nhập giữa tâm t́nh tôn giáo và chất
nghệ sĩ? Ông thiếu một cái ǵ đó, dung tục mà chưa thóat tục. V́ vậy có một
khỏang cách chưa quyện vào nhau giữa nhạc và thơ như trong trường hợp TCS.
Mặc dầu Phạm Duy tự tin rằng: Tôi đă nói hộ thi sĩ. Và tôi xin ghi
lại đây lời giới thiệu của nhà Lá Bối khi cho in tập nhạc: ”Tuy nhiên Lá
Bối ghi nhận rằng những bài Tâm ca được tŕnh bày trong đây, tuy cũng xuất
phát từ trái tim, tuy cũng là ngôn ngữ khóc cười theo mệnh nước, vẫn c̣n
mang một sắc thái đặc biệt: Đó là tính cách tâm linh nội hướng và ư
hướng điều hợp”
[16]
Khi Thích Nhất Hạnh nói tới khát vọng ḥa b́nh, nói tới ước mơ th́ người tu
sĩ thi sĩ ấy gửi gắm trong đó một sức mạnh tâm linh, một khát vọng tôn giáo,
một nguyện cầu cho việc giải quyết cuộc chiến tranh ấy. Đem cái sức mạnh tâm
linh ấy đến như một giải pháp vĩnh viễn cho con người chẳng những xóa bỏ hận
thù mà c̣n có thể xích lại gần nhau, như anh em? Ảo tưởng hay ước mơ? Đă gọi
là ước mơ th́ ai có thể cấm ông được? Quyền ước mơ là quyền tối thượng trong
những t́nh huống thật sự bi kịch đối với một nghệ sĩ? Thừờng sự phê phán là
dựa trên thực tế cuộc đời mà ước mơ th́ lại thuộc một thế giới đi ra khỏi
cuộc đời hay ở trên cuộc đời? Vậy th́ sự phê phán có tỏ ra thích hợp không?
Thiếu cái chiều kích tâm linh trong việc phổ nhạc thơ Nhất Hạnh th́ PD khó
có hy vọng thành công?
Nhưng ngay cùng năm đó, 1965, người ta thấy Phạm Duy sản xuất hàng lọat
những bản nhạc nghịch chiều, trái cựa như chửi cha nhau. Thọat đầu với
Huyền sử ca một người mang tên Quốc. Một cách gián tiếp tôn vinh những
người hùng trong chiến tranh, thần tượng hóa cái chết của phi công Phạm Phú
Quốc và tiếp theo đó một lô hàng sản xuất như ḿ ăn liền mang nhăn hiệu:
Cung khúc Vơ Đại Tôn, Mùa Xuân máu đỏ, Bài ca tử sĩ cho người quê tôi.
C̣n tệ hơn nữa, cũng chính năm đó, một lô sản phẩm có tên: Một hai ba,
chúng ta là lính cả làng, Thi đua biện luận, Nông thôn quật khởi, Tay súng
tay cầy, Khóac áo màu đen, Nhân danh..
Chẳng hạn bài Nhân danh có những câu như:
V́ gia đ́nh, tôi phải giết, phải giết
Giết mười người, giết mười người
V́ xóm làng, tôi phải giết, phải giết
Giết ngàn người, giết ngàn người
Tôi không có ư nói rằng không nên đề cao phi công Phạm Phú Quốc cũng như
những bài thuộc xây dựng nông thôn của ông. Nhưng không thể cùng một lúc
khát vọng ḥa b́nh, ngồi lại với nhau, sau đó lại đ̣i giết, giết một người,
giết ngàn người. Và kết thúc vào năm 1972 với chiến ca mùa hè 1972.
Tháng 3-1966
Chống chiến tranh, phản chiến, khát vọng ḥa b́nh. Đó là những ǵ có thể t́m
thấy trong tâm ca. Vậy mà cũng chính con người ấy, nghệ sĩ ấy, vào tháng
3-1966, ông được bộ Ngọai giao Mỹ mời viếng thăm Hoa Kỳ. Sau đó vào năm
1970, một lần nữa, ông được gửi sang Mỹ để “giải độc” dư luận Mỹ
thường chống chiến tranh. Thật là trái khóay và chớ chêu quá.
Chuyến đi Mỹ này thật khó nghĩ quá. Đă vậy, bài hát tủ mà ông thường hát cho
Mỳ nó nghe lại là bài Giọt mưa trên lá, v́ có lời bằng anh văn.
Có đến ba bốn Phạm Duy trong những câu chuyện này.
Vỉa hè ca :
Sang đến năm 1968, ông sáng tác những nhạc phẩm có tên là vỉa hè ca, gợi
hứng từ Chanson du pavé của Pháp. Vỉa hè ca gồm có các bài như Sức Mấy mà
buồn, Nghèo mà không ham, Ô kê salem, Ô kê nước mắm.
Tục ca :
Thấy như chưa đủ dose, ông dấn thêm bước nữa, sản xuất tục ca để văng
tục vào cái xă hội ông đang sống. Đă có 10 bài Tâm Ca th́ tại sao không có
10 bài tục ca. Thế là 10 bài tục ca ra đời với những tên rất là tục như :
Khỉ đột, T́nh hôi, Nh́n L^`…, Em Đ.. Cầm cu… Trong bấy nhiều bài, tôi đọc
bài Nh́n Lồn, tôi viết cho đủ chữ là ”tục tĩu quá’. Đă viết tục đuợc
như thế mà c̣n ngại ngùng chi mà không viết đầy đủ chữ. Trẻ con nh́n lồn phụ
nữ ngồi đi cầu, nh́n đủ thứ : lồn non, lồn non, hay lớn con, mập mạp, lồn
mềm... Lồn tṛn hoặc lồn móm mém … rồi cuối cùng có đứa nh́n phải đúng
lồn mẹ nó. Tôi gọi là tục tĩu quá cũng không quá đáng. Lại một lần nữa, ông
thú nhận viết tục ca là do ảnh hưởng Phạm Duy Tốn, nhất là nhạc sĩ Georges
Brassens. Ông hay bắt chước quá. Và cầm nhầm nữa. Mấy bài tục ca này phần âm
nhạc thế nào th́ tôi không biết, nhưng phần lời ca th́ thỏai mái và gratuit
quá, chẳng để làm ǵ. Thật sự không biết để làm ǵ? Từ nh́n lồn sang đạo ca
th́ không biết phải nói thế nào.
Đạo ca :
Đến năm 1971, sáng tác của Phạm Duy rẽ sang một khúc quặt mới với sự gặp gỡ
Phạm Thiên Thư, tức Thiền sư Tuệ Không. Phải nói rằng không gặp Phạm Thiên
Thư th́ không bao giờ Phạm Duy có ư tưởng viết đạo ca ? Sau khi đă đi qua
một hành tŕnh sáng tác từ Tâm ca, Tâm Phẫn ca, Vỉa hè ca, Tục ca, Chiến ca
và nay th́ bay lên chín từng không của Đạo ca.
Ở đây, đó là một bước nhảy vào điều mà ông gọi là Đạo ca. Điều ǵ đă khiến
ông thay đổi như thế ? Khó hiểu mà cũng dễ hiểu. Chỉ là cái duyên gặp gỡ với
Phạm Thiên Thư mà sinh ra cớ sự.
Thọat đầu tiên, Phạm Thiên Thư đưa ông bài thơ: Ngày xưa Ḥang Thị. Thế là
có bài Anh tan trường về. Thật dễ thương. Ai cũng thích và ai cũng hát. Nhất
là trong những buổi họp mặt đông người.
Sau đó, Phạm Duy khóac áo Thiền sư.
Khi đạo ca ra đời, ông cũng nhận được một số lời khen của bạn bè như họa sĩ
Nguyễn Gia Trí, G.E Gauthier và như thường lệ có họa sĩ Tạ Tỵ. Những khái
niệm hóa thân, đại vũ tru, đồng nhất thể, mười phưong thế giới là một, ḥa
vào đạo, vào vũ trụ vv…. Tự nhiên, bỗng chốc ông được thừa hưởng hết những
tinh hoa, cốt lơi cao diệu ấy, đạt tới chỗ siêu thóat mà chẳng tốn đồng xu
cắc bạc nào.
Những lời khen trên có chỗ sai là người ta chỉ biết có ông, tưởng ông là
người có những tư tưởng cao diệu mà không lư ǵ đến Phạm Thiên Thư cả.
Nhưng không sao, kẻ đă bỏ đời mà đi, thong dong đạo cốt theo tiếng chuông
*Cam Lộ* như Phạm Thiên Thư th́ c̣n xá ǵ ba tiếng thị phi. Ông cứ an tâm mà
vơ hết về ḿnh đi.
Nhưng Nguyễn Trọng Văn, một lần nữa đứng ở quan điểm con người dấn thân,
nhập cuộc chỉ thấy ở đó một thái độ thóat ly, chạy trốn: ”Những tư tưởng
thóat ly của Đạo ca quả thực là một thái độ chạy trốn … Những tư tưởng thóat
ly của Đạo ca quả thực là một cái ǵ mỉa mai, lạc lơng nếu không phải là một
cái ǵ ru ngủ … Đạo ca không phải một thăng hóa, trái lại là một thái hóa so
với tâm ca.. Đạo ca là một nối dài của t́nh ca, tục ca... khi nhữing thứ này
không đủ sức giúp người thành thị thóat ly khỏi ḥan cảnh đau khổ trước mắt
“[17]
Tôi không nghĩ như Nguyễn Trọng Văn, Đạo ca vẫn có chỗ của nó trong thời
chiến. Chính ở những t́nh huống bi kịch đối đầu từng giây phút với cái chết,
với khổ đau, Đạo ca là con đường tối ưu dần đưa con người ra khỏi trốn lưu
đầy.
Và lúc nào, con người dù hạnh phúc hay khổ đau th́ khát vọng về một thế giới
bên trên vẫn là một khát vọng khôn nguôi.
Khát vọng tôn gíáo là một khát vọng bản thể, khát vọng vĩnh hằng.
Sau 1975 tại Hải ngọai
Trước khi chấm dứt hành tŕnh sáng tác của Phạm Duy, chúng ta không quên:
Bày chim bỏ xứ mà đến nay tôi chỉ được một lần nghe hát. H́nh như số
phận của nó cũng giống như số phận một số nhà văn sáng tác sau 1975 ở Hải
ngọai?
Trong thời kỳ này, từ 1978 về sau, ông sáng tác và phổ nhạc tất cả gần 100
bài hát. Nhưng hầu như không mấy ai biết đến những bài này. Trong đó, tôi
đặc biệt để ư đến thơ Cao Tần và thơ Nguyễn Chí Thiện, lọai thơ được coi là
Chống Cộng mạnh mẽ nhất đă được ông phổ nhạc. Cạnh đó là những bản nhạc do
ông phóng tác như Học Tập cải tạo, Phụ nữ Sàig̣n, Độc Lập Tự Do.(Độc
lập là mất Cam Ranh, Tự do là bán dân ḿnh cho Nga, No là cơm độn bo bo, ấm
là quần rách để tḥ Bác ra.)... Chống Cộng quá đi ấy chứ.
Chỉ cót thể nói, đó là Phạm Duy muôn mặt.
Chẳng ai c̣n biết tới những bài này nữa? Nó bỏ xứ mà bơ vơ lạc lơng nơi quê
người, như chính thân phận bày chim bỏ xứ? Về già, về lại Việt Nam, một lần
nữa, tôi lại được hân hạnh nghe ông tŕnh bày sáng tác mới nhất của ông liên
quan đến tác phẩm truyện Kiều. Tôi nghe mà không thấy thích thú ǵ.
Bữa đó ra về, tôi tự nhủ ḷng là Phạm Duy đă hết rồi.
Cuối cùng th́ cũng phải nh́n nhận với nhau rằng, có rất nhiều bất cập trong
cuộc đời sáng tác của ông. Nhiều bản nhạc của ông cũng như cuộc đời của
chính ông, số phận của nó sẽ không c̣n được ai biết tới.
Nhưng ông cũng đă để lại một số bài t́nh ca được coi là bất hủ, cũng như một
số bài được gọi là dân ca thời kháng chiến khó có thể quên, cộng thêm những
bản nhạc hùng, vui tươi dành cho giới trẻ hay du ca: Mẹ Việt Nam, Việt
Nam, Việt Nam, Tôi yêu tiếng nước tôi, Em tan trường về. Kể chi hết
được.
Một nhận xét nhỏ đây là lần thư hai, tôi đọc hồi kư của ông. Ông không có
một lời phỉ báng bất cứ ai, nhất là giới nhạc sĩ. Dĩ nhiên không kể những
lời giải thích rất tùy tiện, khá huyênh hoang, rất chủ quan về lư do tại sao
sáng tác cái này cái kia.
Cũng trong bài này, tôi không nói tới những mối t́nh lớn nhỏ của ông. Một
phần v́ là đời tư của ông, một phần c̣n có cái ǵ để nói nữa, v́ tự ông đă
kể hết ra rồi trong hồi kư. Ai nói thêm nữa là thừa.
Thứ hai, chuyện ông chọn về VN ở tuổi trên 80 là một chọn lựa cá nhân chẳng
nên nói tới làm ǵ. T́m về VN ở tuổi đời như thế nên được rộng lượng hiểu là
chuẩn bị cho một cuộc hành tŕnh về bên kia thế giới như một giấc mơ ḥai
hương và chẳng nên đem những dấu ấn chính trị để phê phán ông làm ǵ? Và nếu
hiểu con người Phạm Duy th́ thấy rơ rằng, ông là người theo chủ nghĩa thực
dụng, bất chấp những tiêu chuẩn giá trị người đời thường mang ra dùng để phê
phán ông.
Cũng ở đây, tôi nhận ra rằng anh Nguyễn Trọng Văn cũng như bất cứ ai phê
phán ông th́ đă vấp phải sai lầm là đă đánh giá quá cao về ông, về vai tṛ
người nghệ sĩ, đ̣i hỏi ở ông những điều ông không có được. Trước sau, ông
chỉ là một người theo chủ nghĩa duy lợi, duy thực tiễn, chủ nghĩa cơ hội
trong bất cứ t́nh huống nào.
Sau bài nói chuyện của Nguyễn Trọng Văn tại Đại Học Văn Khoa th́ bạn bè có
đưa ra nhận xét như sau: ”Cậu làm như vậy là cho ông ấy đội mồ đứng dậy,
chính cậu tác tượng cho ông ta, chứ đâu phải khai tử ông ấy. Hoặc: ”Tư
cách của Phạm Duy mà cậu lôi ông vào giảng đường Văn Khoa để nói tức là cậu
biến ông ấy thành bất tử rồi, vinh hạnh cho Phạm Duy quá c̣n ǵ. Đáng lư
phải nói bên cạnh đống rác hay cầu tiêu mới phải.”
[18]
Những phát biểu bên lề như thế và một số nhận xét coi ông như một gái điếm
đều là những nhận xét xúc phạm đến ông một cách bất công. Thật không nên.
Bài viết này có khen, có chê và cũng nhằm trả lại công đạo cho ông một phần.
Và v́ thế câu hỏi ở đầu bài viết sẽ được trả lời là Phạm Duy c̣n đó và không
thể chết, dù muốn dù không, dù thế nào đi nữa, ông cùng với Trịnh Công Sơn
là những nhạc sĩ tài ba nhất của miền Nam Việt Nam Công Ḥa trước 1975.
Giết ông th́ Ta ở với ai?
- Nguyễn Văn Lục -
[1] Trích lại trong Phạm Duy đă chết như thế nào của Nguyễn Trọng
Văn, nxb Văn Mới
[2] Trích Hồi kư, thời Cách mạng kháng chiến của Phạm Duy, trang
121-123.
[3] Trích sách Nguyễn Trọng Văn, như trên, trang 125
[4] Xem Hồi kư Phạm Duy, Thời phân chia Quốc Cộng, trang 91
[5] Trích Giám Mục Lê Hữu Từ và Phát Diệm, Đ̣an Độc Thư và Xuân
Huy, 1945-1954 trang 152
[6] Về phía Phát Diệm, Lập trường của ĐC Lê Hữu Từ ghi lại trong
biến cố ngày 16-10-1949 như sau:” Nhưng lập trường của Đức cha và Phát
Diệm rất rơ ràng là chống cả Cộng Sản lẫn thực dân Pháp. Các việc người làm
đă chứng tỏ sự ấy Ngài đă thẳng thắn trả lời một vị kia, khi vị ấy xét ngài
không thể ở trung lập được phải chọn lấy một trong hai kẻ thù hoặc Pháp hoặc
Cộng Sản, rằng: ”Tôi không theo Cộng Sản mà cũng không theo Pháp. Người
ta có thể giết tôi được, song không ai có thể bắt tôi bỏ đạo cũng như không
ai có phép bắt tôi bán nước chúng tôi được”[6]
Cũng trong cái tinh thần đó, căn cứ theo một điện tín của Durdin gửi cho tờ
New York Times về lập trường của GM Lê Hữu Từ như sau:”Nous sommes
anticommunistes, mais aussi nationalistes.. Nous voulons que le Viet Nam
soit inđépendant et qu ‘à l ‘avenir tout contrôle francais disparaisse (…)
En effet, les deux évêques se đemandent si le gouvernement de SM Bảo Đại a
réellement obtenu une inđépendance suffisante pour mériter l ‘appui sans
réserve de cette région catholique qui peut jusqu‘à ce jour se glorifier de
ses sentiments nationalistes et anticommunistes…”[6] (Chúng tôi chống
Cộng Sản, nhưng là những người quốc gia. Chúng tôi mong mỏi một nước Việt
Nam độc lập và trong tương lai thóat khỏi sự kiểm sóat của người Pháp (…)
Thật vậy, hai giám mục tự hỏi chính phủ của vua Bảo Đại có thực sự đạt được
một nền độc lập đủ để xứng đáng nhận được sự ủng hộ tích cực của khu vực
công gíáo Phát Diệm mà từ trước đến giờ, chúng tôi vẫn tự hào về tinh thần
quốc gia và chống Cộng sản)
Và về phía người Pháp th́ như nhận định của đại tá Gambiez như sau: ”La
méfiance des évêques à l’endroit de la politique francaise et la réserve
hostile envers le gouvernement central Vietnamien et l’administration
régionale du Nord, plus une ferme volonté de conserver leur autonomie
administrative”[6] Các giám mục tỏ ra nghi ngờ đường lối chính trị của
người Pháp, và đồng thời có sự dè dặt ác cảm với chính quyền Bảo Đại cũng
như nhà cầm quyền ở miền Bắc. Nói đúng như nhận xét của người Pháp th́ Phát
Diệm chơi tṛ *double jeu*, đu giây giữa Pháp và Việt Minh để bảo đảm sự an
ṭan của Phát Diệm. Cái double jeu này sau đó tỏ ra không hữu hiệu đi đến
chỗ bắt buộc ngả hoặc theo bên này, hoặc theo bên kia. Phát Diệm đă chọn con
đường theo Pháp. Không theo Việt Minh th́ chỉ có một con đường duy nhất là
theo Pháp mà đại diện là chính quyền Quốc Gia của Bảo Đại thôi.
Và họ là ai trong số 60 ngàn dân tị nạn ở Phát Diệm? Họ thuộc đủ thành phần
Có người của Quốc Dân đảng, Duy Dân, Dân Tộc, Việt Quốc, Việt Cách, Xă hội,
nhóm Bảo Ḥang nhất là Đại Việt. Họ là những Lê Quang Luật, Trần Văn Chương,
Ngô Đ́nh Nhu, Nguyễn Tường Tam (sau trốn sang Tàu) Bùi Diễm, con cụ Bùi Kỷ,
Nghiêm Xuân Hồng, Lư Đông A, Tạ Văn Nho. Trẻ hơn có Ḥang Bá Vinh, c̣n gọi
là Già Vinh, Trịnh Lâm, Minh Đức Ḥai Trinh, Trịnh Lâm, Nguyễn Phương Thiệp,
Trần Kim Tuyến.. Đặc biệt có Phạm Duy, Thái Hằng, Thái Thanh, Nguyễn Đức
Quỳnh, Phạm Đ́nh Sỹ và Kiều Hạnh, Phạm Đ́nh Viêm đi theo kháng chiến, rồi
cũng bỏ, từ chợ Neo kéo về Phát Diệm t́m đường dinh tê.
[7] Trích Hồi kư Phạm Duy, thời Cách Mạng kháng chiến, trang 324
[8] Trích hồi kư Phạm Duy, Thời Cách mang… trang 303
[9] Xem Hồi kư Phạm Duy, Thời phân chia Quốc Cộng, trang 91
[10] Hai câu thơ trên là của thi sĩ Trương Kế, sống giữa thế kỷ
thứ VIII, ông người tỉnh Tô Châu, đỗ tiến sĩ. Nay, tại Hàn Sơn Tự, vẫn c̣n
khắc mấy câu thơ trên. Trong một đêm trăng, ông đă ngồi tại chùa Hàn Sơn Tự
mà viết bài Phong kiều du bạc
[11] Trích Tạ Tỵ trong C̣n đó nỗi buồn, trg 117. Trích lại trong
Nguyễn Trọng Văn, sdd, trang 49
[12] Trích lại trong Nguyễn Trọng Văn sdd, trang 65
[13] Trần Văn Khê, nhân xem Trường ca Con đường cái quan của Phạm
Duy, Văn Học, trang 102 trang 69. Trích lại Nguyễn Trọng Văn, sdd, trang 66.
[14] “Trích Phạm Duy đă chết như thế nào ? NguyễnTrọng Văn, trang
63
[15] Trích Hồi kư Phạm Duy, thời phân chia Quốc Cộng, trang 205.
[16] Trích Ngàn lời ca của Phạm Duy, trang 168
[17] Trích tóm lược sđd của Nguyễn Trọng Văn, từ trang 116-118
[18] Trích Phạm Duy đă chết.. Nguyễn Trọng Văn, trg 128-130 |