MỘT THOÁNG SUY TƯ
nguyễn bá trang
chỉ là một thoáng suy tư
khi ngồi nhớ lại chuyện người, chuyện ta
NBT.
Cách đây không lâu, một hôm tôi đi vào hiệu bán phim t́nh cờ thấy có đĩa nhựa CD đề Conspiracy of Kindness. Cái tựa với tiếng đôi phản nghĩa (oxymoron) này khiến tôi chú ư. Liếc xem phần giới thiệu trên b́a th́ biết đó là cuốn phim dựa trên tài liệu có thật, nói về một công dân Nhật trong thế chiến 2 đă cứu nhiều ngàn người dân Do Thái khỏi bị đẩy vào trại tập trung do lănh tụ độc tài Đức Quốc Xă bày ra nhằm tiêu diệt tận gốc dân Do Thái.
Nước Nhật thời Thế Chiến 2 là quốc gia đồng minh chiến lược với Đức, mà Đức th́ chủ trương tiêu diệt dân tộc Do Thái, một sự thật lịch sử ngày nay c̣n lưu lại nhiều chứng cứ rùng rợn nói không cùng. Tên cuốn phim tài liệu này khiến tôi muốn biết lư do nào mà có chuyện trái cựa như thế trong đường lối ngoại giao của nước Nhật về một nhân vật người Nhật, đại sứ Chiune Surihaga, thời xảy ra câu chuyện.
Chiune Surihaga thuộc hệ tộc Bushido, Vơ sĩ đạo, từ nhỏ có khiếu sinh ngữ. Nói được 4 thứ tiếng trong đó có tiếng Nga và tiếng Đức, ông đi vào ngành ngoại giao. Vào năm 1939, ông được chọn gửi đi làm việc ở ṭa Đại sứ Nhật ở Moscow nhưng chính quyền Xô Viết ở đây không nhận; sau đó, ông được chỉ định chức đại sứ Nhật tại Ba Lan. Ở cương vị này, ông biết 2 việc. Một là tại nhiều quốc gia trên thế giới đang có thái độ chống người Do Thái. Hai là, v́ Nhật lúc bấy giờ đă chiếm toàn bộ Măn Châu, chính phủ Nhật có đề nghị trước cộng đồng thế giới là cho tất cả người Do Thái cần chạy trốn sự kỳ thị, sẽ được đến định cư tại Mông Cổ, dưới sự che chở của người Nhật. Thế nhưng, trưởng lăo giáo sĩ Do Thái tại Nữu Ước không nêu ư kiến tiếp theo, cho nên đề nghị của nước Nhật bị bỏ qua: Thế giới chưa quên sự tàn bạo của lính Nhật khi họ tiến chiếm một phần đất quan trọng phía Bắc của Trung Hoa năm 1937.
Khi đến Ba Lan, ông Surihaga gặp nhiều người dân Do Thái xin ông cấp cho họ chiếu khán từ Ba Lan đi Nhật để từ đây chạy lánh nạn sang Mỹ Châu. Nơi đến nghe nói là Curaçao, một ḥn đảo rộng 546 cây số vuông gần 3% lănh thổ Do Thái ngày nay-- thuộc biển Caribean, ngoài khơi Venezuela, Nam Mỹ. Đảo này lúc bấy giờ do người Ḥa Lan chiếm đóng khai thác trồng nho và cam.
Truớc t́nh thế này, ông gửi điện xin lệnh của Đông Kinh. Ở đây v́ sợ làm mếch ḷng nhà độc tài Hitler lúc bấy giờ nên không đồng ư. Là một nhà ngoại giao có căn bản, ông biết từ lâu trước đó, nước Nhật có món nợ tinh thần với người Do Thái trên thế giới, món nợ mà nước Nhật chưa có dịp để trả.
Cuối thế kỷ thứ 19, nước Nhật, một quốc gia hải đảo, v́ sự sống c̣n của ḿnh mà phải khai chiến với nước Nga thời Sa Hoàng để tiến chiếm Măn Châu rồi một phần nước Trung Hoa thời Măn Thanh. Muốn làm chiến tranh th́ phải có tiền. Nước Nhật đi vay, nhưng không ngân hàng nào trên thế giới thuận cho, v́ mọi người tin rằng trong cuộc chiến tranh đó, Nhật sẽ thua rồi không có tiền trả nợ. Sau cùng rồi chỉ có một chủ ngân hàng người Do Thái ở Nữu Ước thuận cho nước Nhật vay 200 triệu mỹ kim thời bấy giờ mà không đ̣i hỏi một điều kiện hoàn trả nào, gần như cho không.
Bộ trưởng tài chính người Nhật thời đó hỏi lư do cho vay th́ được người Do Thái trả lời: “Tôi cho quí ông vay không phải v́ tôi là chủ ngân hàng mà v́ tôi là người Do Thái.” “Tôi muốn quư ông đánh cho tụi nó (nước Nga của Sha Hoàng) một trận tơi bời” người chủ ngân hàng nói tiếp. Và trong trận chiến đó, Thiên Hoàng Nhật thắng Sha Hoàng Nga rồi thành cường quốc quân sự trong toàn vùng.
Rồi bấy giờ đang tại chức ở Ba Lan, khi đối diện với những người Do Thái đang t́m cách chạy trốn cuộc tàn sát chắc chắn sẽ xảy ra trong đó có nhiều phụ nữ và trẻ con-- th́ Đại sứ Chiune nghĩ là ông phải cứu những người sấp thành nạn nhân của cuộc tàn sát đại qui mô đó. Nhưng khi ông chưa có hành động ǵ thêm th́ Đức xua quân tiến đánh Ba Lan; ông được lệnh dời sang nước Lithuania. Ở đây ông lại gặp cảnh người Do Thái chạy theo, đến xin ông giấy chiếu khán đi Nhật. Ông ba lần hỏi xin lệnh ở Đông Kinh, nhưhg y như ở Ba Lan trước đó, ông bị từ chối cả ba lần. Ông nghĩ nếu làm trái lệnh của Đông Kinh th́ ông bị trách cứ. C̣n làm theo lệnh của Đông Kinh th́ ông cải lệnh Thượng Đế . Trong hoàn cảnh đó, ông đành quên lệnh của của Đông Kinh mà thuận cấp giấy chiếu khán.
Số người xin cấp lúc đầu lên đến số trăm, rồi số ngàn, rồi nhiều ngàn. Trên mỗi tờ chiếu khán, ông và bà đại sứ với một nhân viên thư kư phải viết tay những hàng chữ ng̣ng ngoèo rồi đóng mộc. Tất cả phải làm việc liên tục cho đến đêm khuya và làm trong nhiều ngày trong khi số người Do Thái kéo đến mỗi lúc mỗi đông, đứng đầy trước rào mặt tiền của ṭa Đại sứ Nhật. Thậm chí có nhiều người không có sẵn thẻ thông hành; ṭa Đại sứ lấy đại tờ giấy trắng, viết vào đó những hàng chữ, rồi kư tên đóng mộc. Tin này thấu tai Đông Kinh.
Không lâu sau, Đại sứ Chiune được lệnh dọn đi Bá Linh. Trong khi người nhà thu dọn ra đi, ông và bà Đại sứ tiếp tục viết, tiếp tục kư, đóng mộc cho đến khi họ ra đến cổng, tay vẫn c̣n kư, kư ngay lúc ở ga xe lửa chờ giờ khởi hành, kư khi lên tàu hỏa rồi ném giấy chiếu khán trở lại cho người xin. Lúc bấy giờ ông và bà không nhớ ḿnh đă kư bao nhiêu tờ chiếu khán. Về sau t́m ra con số gần nhất th́ thấy là 2,139, tức là ngần ấy gia đ́nh được cứu thoát cảnh tàn sát của Đức Quốc Xă, nhưng con số thật th́ cao hơn thế rất nhiều. Và ông làm thế để được ǵ? Về sau ông nói: “Thấy việc phải th́ làm, không cần biết hậu quả cho ḿnh về sau ra sao; làm mà không đ̣i một điều kiện nào cả.”
Sau chiến tranh, Bộ Ngoại giao Nhật gọi ông mang cả gia đ́nh về nước để nghe tin ông chính thức bị sa thải khỏi ngành Ngoại giao. Từ đó ông không có nghề nghiệp nào khác, phải để gia đ́nh tại Nhật, một ḿnh ông đi Liên Sô làm nghề thông dịch trong 15 năm để nuôi ông tại chỗ và nuôi gia đ́nh ông sống lây lất ở quê nhà. Về phần những nạn nhân được ông cứu sau khi ổn định cuộc sống tại nước tạm cư th́ có đi t́m ông để trả ơn. Nhưng khi họ đến Nhật để hỏi thăm th́ ở đây cho biết không có thông tin nào về về ông cả, v́ ông đă đổi tên họ để đi Liên Sô. Khi tuổi già đến, ông về lại nước Nhật và qua đời ở đó, để lại một tấm gương trong sáng về t́nh người biết đối xử tửù tế với người thật sự cần đến ḿnh để được quyền sống mà ông quên rằng cứu vật vật biết ơn, cứu nhân nhân trả oán thường thấy ở nhiều nơi khác.
Hơn thế nữa, ông cho rằng cái ác được thể hoành hành là v́ những con người có ḷng không ai chịu làm ǵ để ngăn chận tội ác đó. Rồi ngày nay th́ hàng năm, đến ngày giỗ của ông th́ đại diện những cộng đồng Do Thái trên thế giới thành lập phái đoàn đi viếng ông ở Nhật để bày tỏ ḷng biết ơn đối với người nhiều thập niên trước đă can đảm quên ḿnh để cứu hàng ngàn nạn nhân--không phải người Nhật-- mà ngày nay đă lên đến số mấy trăm ngàn và c̣n tăng.
Một nạn nhân được ông cứu nói: “Nhờ chỉ một tờ chiếu khán có chữ kư của ông mà tôi ngày nay có tất cả 25 người con và cháu.” Một người khác th́ cảm động hơn, nói: “ Tôi đến đây theo lời trối mẹ tôi trước khi bà qua đời là phải t́m ra ông để chuyển lời bà thành thật biết ơn ông khi sống cũng như khi chết.” Một ông nọ th́: “ Ông đúng là sứ giả trời sai xuống để làm việc cả thễ như thế. Ngoài ông ra th́ không ai làm được.”
Xem phim này tôi bỗng nhớ đến một niên trưởng của tôi, Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang, người tôi nghĩ vào thời điểm cuối tháng Tư năm 1975, phải trải qua những giờ phút cô đơn cùng cực, khi ông âm thầm-- trong trường hợp không một ai có thể cho ông một lời cố vấn--lấy quyết định di tản Hạm Đội Việt Nam đến một vùng an toàn cho chiến hạm trước khi giờ lịch sử sấp điểm. Các chiến hạm thuộc Hạm Đội nay có mang theo nhiều chục ngàn người. Nếu tên cha mẹ đặt cho một người là định mệnh th́ cuộc đời ông là đúng như vậy. Họ của ông là tiếng chuông gọi mời, chữ lót mang nghĩa tiến lên và tên riêng có nghĩa thành thật, nói chung ông là tiếng chuông gọi ḷng thành thật. Ông sống chân thật với ông và thành thật với người, được sinh ra để giúp đời khi hữu sự.
Ông sinh năm 1926. Khi vào đời th́ muốn đi xem nhiều nơi trên thế giới nên chọn nghiệp đi biển cả. Gặp cơn quốc biến năm 1952 th́ nhận lệnh nhập ngũ, ông bỏ tất cả đi ṭng quân theo luật định.
Tháng 6 năm 1954 khi chúng tôi đang học nghề ở TTHLHQ/Nha Trang th́ ông là sĩ quan hạm phó trên chiến hạm học hiệu mà hạm trưởng là một vị Đại úy người Pháp. Lần đầu tiên vào nghề, xuống tàu thực tập th́ tôi gặp ông ở đó, cấp trung úy. Một hôm tàu đang ở biển, hạm trưởng đứng ở đài chỉ huy chuẩn bị lên neo, c̣n ông th́ đang ở nhiệm sở tại sàn mũi. Bỗng ông nghe hạm trưởng người Pháp, Hải Quân Đại Úy De Merliac, nói một câu ǵ mà ông cho là xúc phạm đến thủy thủ Việt Nam trên tàu, ông dậm chân nạt lại ngay. Hạm trưởng đành phải im. T́nh huynh đệ chi binh này c̣n được thể hiện về sau, trong một trường hợp gia trọng hơn, khi ông về coi Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang.
Một năm trước khi ông phục vụ tại quân trường này th́ nội bộ Hải Quân Việt Nam có chuyện không lành do một phúc tŕnh mật gửi về Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, tố cáo vị đương kim Tư Lệnh Hải Quân về một sơ xuất có liên quan đến điểm nhạy cảm nhất của ông Diệm: Chủ quyền quốc gia. Do đó mà vị Tư lệnh đó bị ngưng chức, ngoài ra c̣n bị truy tố ra ṭa án mặt trận xử cho ngồi tù để làm gương.
Tin này khiến niên trưởng tôi nóng mặt v́ ông cho danh dự của quân chủng của ông bị xúc phạm trầm trọng. Để tỏ thái độ dứt khoát, ông kể lại, “ Khi biết rơ như vậy, Moa gọi Đại Tá Đổ Mậu, người được xem là thân cận với ông Diệm về phương diện An Ninh Quân Đội, nói nếu trên quyết định đưa Tư Lệnh Hải Quân đó ra ṭa th́ moa sẽ làm đơn xin giải ngũ lập tức.” Năm 1957, Hải Quân Việt Nam đang thời được thành lập, c̣n thiếu cấp chỉ huy có khả năng, lời nói của ông khiến cho trên xét lại thấy việc truy tố một Tư Lệnh Hải Quân ra ṭa là thiếu khôn ngoan. H́nh phạt rút lại c̣n cho đi du học Hoa Kỳ. Sự lanh trí và tính cả quyết của ông đă cứu người bạn khỏi một tai ương trong gang tất, và chính quyền khỏi phạm vào một việc khó coi. Ông tuổi Bính Dần, trời sinh tính nóng như lửa trong ḷ cao nhưng rất lành và hữu ích, v́ lửa này dùng luyện quặng mỏ thành quí kim.
Quả thật vậy, trong quân chủng, ông được thiên phú có đủ ngôn ngữ để nói chuyện với từ thủy thủ đến quan, và đến những vị trong hàng tướng lănh. Với mỗi thành phần trên đây, ông có cách nói riêng của ông. Thời ông làm tại Bộ Chỉ Huy/ Giang lực thuộc Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa, ông phải nhận tất cả nhân viên ba-gai nào không ai nhận; nhận rồi “uốn nắn” để dùng. Ông quan niệm rằng sinh ra trên đời,không một ai vô dụng đến không thề không đỡ được một gánh nặng nào cho ai hết. Vấn đề là đặt người đúng chỗ, đúng việc và đúng lúc. Và điều nhiều người nay c̣n nhớ là qua tay ông, biết bao chiến sĩ giang lực đă chiến đấu gan ĺ đến trở thành huyền thoại. Được như thế là v́ ông biết đặt uy tín của ông trên ḷng thành thật như tên gọi của ông.
Bốn năm sau ngày ra trường, tôi được thuyên chuyển về TTHT/Nha Trang th́ ông đang là chỉ huy trưởng ở đó, cấp thiếu tá. Tôi ở quân trường được hai tháng th́ ông có lệnh đổi đi, và sau đó hỏi thăm anh em th́ biết ông lúc bấy giờ đang du học. Thời gian sau, năm 1959, thấy ông dẫn một tàu trục lôi mới toanh từ Hoa Kỳ về nước. Rồi không c̣n gặp ông nữa cho đến cuối năm 1963 th́ thấy ông về nhận chức Tư Lệnh Hải Quân. Không lâu sau th́ ông rời chức vụ, lên Đà Lạt coi trường Chỉ Huy Tham Mưu. Nhiều năm kế đó, từ Đà Lạt ông về Sài G̣n nhận việc bên ngoài quân chủng. Tháng Tư năm 1975, khi t́nh h́nh thủ đô bị nhiều xáo trộn th́ ông nhận lệnh trở lại chức Tư Lệnh Hải Quân để phải làm một quyết định có liên quan đến hàng nhiều chục ngàn người mà chắc chắn nó—quyết định ra đi—khiến ông, giống như nhân vật Chiune, phải trăn trở không ít, trước khi thi hành lệnh của chính ḿnh ban ra. Tiên sinh Chiune có phân vân giữa Thiên Hoàng ở Đông Kinh và Thượng Đế trên trời, để sau rồi ông chọn cách hành xữ theo ư muốn của Thượng Đế. Niên trưởng của tôi cũng qua nỗi phân vân này và qua đó ông nhận thấy ư nghĩa của hai chữ hi sinh thân thế của ḿnh đề chu toàn một nghĩa vụ đối với hàng nhiều vạn con người trong lúc bị lâm nguy.
Ở quân trường, chúng tôi có được học qua môn thời tiết, có được dạy phương pháp đề pḥng cũng như tránh bảo tố trên biển với lời khuyên chân thành của huấn luyện viên là, “Biết thế thôi, nhưng đừng bao giờ mong gặp những thứ đó.” Trong thế chiến 2, theo thống kê chính thức của Hải Quân Hoa Kỳ th́ trong ba năm hải chiến trên Thái B́nh Dương, thời tiết gây thiệt hại cho Hạm Đội số 7 nhiều hơn là bom và đạn của địch. Thế nhưng, tôi đă phải gặp không phải một mà là hai trận bảo trên biển. Một lần năm 1958 trong vùng vịnh Thái Lan khi tàu tôi thuộc thành phần Hải Đội đi thao dượt hàng năm. Toàn thể Hải Đội gồm 8 chiến hạm mà có đến 2 bị sóng và gió đẩy lên băi An Thới, Phú Quốc. Đó là tàu Hàm Tử 1 và tàu Nỏ Thần. Nhưng trận thứ hai th́ nguy hiểm hơn.
Năm 1966, khi chiến hạm tôi trên đường về nước, đi từ Norfolk (Bang Bắc Carolina — Hoa Kỳ) đến vùng Kinh Panama th́ gặp một cơn bảo đang thành h́nh trên biển Caribean cách 300 hải lư phía trước mặt. Phi tuần Hoa Kỳ cất cánh hướng dẫn các tàu trong vùng tránh bảo. Nhưng cơn bảo đó bỗng nhiên đứng một chỗ. Chúng tôi theo hướng đi do phi tuần khuyến cáo th́ một ngày sau, cơn bảo bắt dầu di chuyễn rồi hướng ngay vào chúng tôi với vận tốc nhanh kỳ lạ, khiến tàu tôi và bốn tàu khác lọt vào bên trong nửa phần nguy hiểm của nó, bị hút vào con mắt tử thần, rồi có lúc, chiếc tàu hầu như không c̣n ăn lái. Trong giờ phút nguy nan cao độ đó, tôi bỗng nhớ lại từng chương trong quyển truyện Băo Tố (Typhoon) của Josef Conrad viết năm 1903 rồi thấy t́nh trạng trên tàu tôi lúc bấy giờ là y chang như vậy : Trong băo lớn, con tàu có tiếng kêu của nó, giống như tiếng cá voi hát trong ḷng đại dương. Ư ông muốn nói tai người sấp chết thường nghe hồi chuông báo tử.
Lần đó thủy thủ trên tàu và tôi đă tận mắt thấy địa ngục nước bao quanh ḿnh, thấy những bức tường mưa thẳng đứng, mỗi giọt nước từ đó bắn ra mạnh như roi quất vào người, cảm thấy gió nóng như sa mạc ngày nắng gắt, rồi gió lạnh như hơi băng tiếp theo, rồi lại nắng gắt, rồi lạnh, thấy những hiện tượng chưa được nói đến trong sách, hay là có mà tôi chưa học qua. Liên lạc duy nhất c̣n lại với trần thế con người lúc bấy giờ là tiếng từ phi tuần, mỗi 15 phút gọi một lần tên các tàu trong vùng, và gọi cho đến khi có tàu lên tiếng để biết tàu nó c̣n nổi. Đó là lần thứ hai tôi biết cái kinh nghiệm là trong giờ phút nghiêm trọng nhất, người chỉ huy chỉ c̣n tin ở khả năng của chính ḿnh và đối với riêng tôi, c̣n tin ở lời cầu nguyện, để thoát ra khỏi cơn bảo nhỏ--gió 90 dậm giờ!—và thoát ra sau hơn 2 ngày chịu trận, với mui bố trên đài chỉ huy bị xé toẹt rồi bay đi như cái chớp mắt của tử thần, lưới radar săi cánh 2.5 thước gẩy gục, các vật dụng trên boong tàu bị hất xuống biển và các hầm dầu đều có dấu nứt, dầu phụt lênh láng trong các pḥng gần đó và thủy thủ th́ như bị ốm nặng một tuần mới ngồi dậy. Trở lại câu chuyện của niên trưởng tuổi Bính Dần.
Khi cuộc chiến Việt Nam gần kết thúc th́ ông được trên trao chức Tư Lệnh Hải Quân. Thời gian ông phục vụ Hải Quân ở chức vụ đó không lâu, chỉ bằng gần 5% số tuổi của Hải Quân; ông chưa đưa ra một tầm nh́n chiến lược nào cho quân chủng. Khi ông trở lại lần đó, ông liền nhận thấy ngay trong bao nhiêu năm trời, Hải Quân thay v́ phải đóng nơi thích hợp nhất, gần biển cả nhất, như Cam Ranh chẳng hạn, th́ bị giam chân tại một đoạn chật hẹp của con sông Đồng Nai chạy qua Sài g̣n. Việc phải làm tức thời là bảo vệ cho bằng được thủy tŕnh đó ăn thông ra biển để điều động Hạm Đội ra khơi khi cần thiết. Thế là ông cho thành lập ngay một Lực Lương Đặc Nhiệm-99, và trong hàng trăm sĩ quan cao cấp có kinh nghiệm chiến trường trong sông, ông chọn một người để giao nhiệm vụ đó. Và ông không chọn lầm. Chính lực lượng này đă phá vở ư đồ của đối phương trong việc “Cắt đứt Quốc lộ 4, ngang khúc Long An trong chiến dịch tiến đánh Sai G̣n” năm 1975.
Ngày 29 tháng Tư năm 1975, tại Sài G̣n, ông là người ra quyết định cho Hạm Đội lên neo. Ông nhận lệnh từ đâu? Theo một số phụ tá thân cận của ông thời bấy giờ th́ không có lệnh từ phía chính phủ cho chuyến khởi hành chở theo hàng nhiều chục ngàn người di tản. Nghĩa là không ai dám ra lệnh cả. Đây chỉ là một giả thuyết.
Tháng 3 năm 2006, nhân lần được gặp ông khi ông đi Quận Cam dự tang lễ một cựu chiến hữu Nhảy Dù, chúng tôi hỏi về việc ra đi lịch sử này, ông nói: “ Thủ tướng Trần Thiện Khiêm nói với tôi: ‘ Chuẩn bị một tàu Dương Vận Ham (LST) cho Chính phủ và Bộ Tổng Tham Mưu, một nữa cho Bộ Tư Lệnh Lưu Động Hải Quân.’.” Như vậy, ư định thành lập Bộ Tư Lệnh/Hải Quân và BTTM lưu động đă có từ thời ông Thiệu c̣n tại chức. Rồi hơn 30 năm trôi qua, chuyến ra đi đó đă thành lịch sử mà hầu như không để lại mấy dư âm; nhiều người nghĩ chuyến đi được b́nh an và hoàn toàn may mắn. Nhưng phải được nghe chính ông kể lại những t́nh tiết nhiêu khê những ngày kế đó th́ ngoài cái may mắn ra c̣n không ít bí ẩn khác. Ông tiếp: ”Ngày 25 tháng 4 năm 1975 tôi triệu tập buổi họp gồm các Tư Lệnh Lực Lượng thuộc Quân chủng Hải Quân và các Đại Đơn vị tại Sài G̣n. Nội dung buổi họp là: (1) Duyệt xét t́nh h́nh chung, (2) Quyết định về di tản hay không di tản, và (3) Tiếp tế tối đa cho các chiến hạm khiển dụng..” Quyết định này tuy được giữ kín, vẫn không qua con mắt của người Mỹ. Theo trí nhớ c̣n minh mẩn của ông, buổi sáng ngày 26 tháng Tư, một người Mỹ với tên Việt Nam là Phú, đến Bộ Tư Lệnh/Hải Quân. Ông ta đang có nhiệm sở ở cơ quan D.A.O của Hoa Kỳ tại khu Tân Sơn Nhất. Niên trưởng tiếp:
” Ngày đó, ông này đưa ông Von Marbot, Thứ trưởng Quốc Pḥng Hoa Kỳ, đến gặp tôi tại Bộ Tư Lệnh/Hải Quân bằng một trực thăng đáp tại bến Bạch Đằng. Ông Von Marbot thúc dục tôi ra đi và sẵn sàng để tôi xử dụng chiếc trực thăng của ông ta. C̣n ông ta và ông tên Phú đó dùng ǵ để di chuyển tiếp theo là điều làm tôi thắc mắc.” Với đề nghị vào giờ chót đó của 2 người Mỹ đó, ông nói : ”Tôi sẽ không ra đi một ḿnh, để lại hơn 40,000 nhân viên và gia đ́nh của họ ở lại.” Khi người Mỹ này trở lui th́ ông liếc nh́n ra bến Bạch Đằng thấy có chiếc trực thăng c̣n đó. Cũng theo lời của ông, “ Ngay cầu Đô Đốc gần bên, một chiếc Tuần Duyên đỉnh loại PGM đang đậu bến, mũi hạ gịng. Rồi liền đó, Đại Tá Đoàn Ngọc Bích điện thọai nói, :’ Một thủy thủ trên chiếc tàu tuần duyên đó vừa báo cho ông hay là xạ thủ trên tàu tuần duyên dược lệnh quay súng 20 ly về hướng văn pḥng của Tư Lệnh Hải Quân và nổ súng khi thấy Tư Lệnh ló dạng. Thiếu Tá Bùi Kim Nguyệt cũng đươc báo tin này, bèn cho Ty Quân Cảng ra tháo dây Tuần duyên đỉnh rồi gịng nó đi xa Bộ Tư Lệnh.” Có lẽ nào người Mỹ ông nói đó, biết rất rơ rằng ông luôn trực tính, và dị ứng với những ǵ là mệnh lệnh sai trái đến từ người nước ngoài?
Ngoài ra, cùng ngày này, Chỉ Huy Trưởng Đặc Khu Rừng Sát báo ông biết một đoàn trực thăng của Không Quân Việt Nam—nói là của ông Kỳ-- đang đáp xuống Bộ Chỉ Huy/ ĐK/RS xin được tiếp tế xăng GP-4, loại nhiên liệu cho trực thăng do người Mỹ để lại trước kia mà không biết từ đâu mà các phi công trực thăng biết ở Đặc Khu có xăng loại đó. Và rồi trưa ngày 29 tháng Tư ông ra lệnh tất cả nhổ neo di chuyển đến một nơi an toàn là biển cả , sau khi đưa dân chúng chạy loạn đến Phú Quốc.
Khi được hỏi trước khi cho lệnh Hạm Đội lên neo, phía chính phủ có chỉ thị gi cho Hải Quân thi hành hay không th́ ông nói trong buổi sáng ngày 29 tháng Tư th́ ông có nhận diện thoại từ Đại tướng Dương Văn Minh. Sau đây là phần đối đáp:
DVM: Toa gửi Thủy (Phó Đề Đốc Diệp Quang Thủy, Tham mưu trưởng Hải Quân) lên cho moa.
Đáp: Đại tướng cần ǵ, tôi lên ngay.
DVM: Moa chỉ cần Thủy thôi.
Khi Phó Đề Dốc Thủy tŕnh diện Đại tướng Minh th́:
DVM: Tụi toa có đi cho moa gửi 3 người này theo với. (Số 3 người đó là: tướng Hoàng (Xui gia của tướng DVM), Đại tá Nguyễn Hồng Đài (Con rể của tướng Minh) và tướng Mai Hữu Xuân)
Đáp: Thưa nếu Đại tướng có đi, chúng tôi sẵn sàng đưa Đại tướng đi luôn.
DVM: Tụi toa cứ lo cho 3 người này. Moa phải ở lại. Nếu đến mức phải chết th́ người ta chỉ chết có một lần thôi.
Như vậy th́ chính ông Dương Văn Minh khi biết Hạm Đội sấp lên neo th́ ông không cản mà cũng không ra lệnh. Khi hỏi quan niệm thi hành lúc bấy giờ cho Hạm Đội đi đâu, làm ǵ, th́ ông nói : “Cố đưa mấy chục ngàn dân chúng ra Phú Quốc rồi sau đó Hạm Đội sẽ trở lại nhưng, để tránh t́nh trạng bi động, Hạm đội không vào Sài G̣n. Nơi an toàn cho chiến hạm luôn là mặt biển. Khi đi th́ điểm tập trung là Côn sơn.” Ông nói tiếp, “Lúc Hạm Đội đang ở điểm tập trung này th́ có tin ông Minh ra lệnh bàn giao chính quyền miền Nam.”
Nh́n đồng hồ, thấy c̣n chút th́ giờ, chúng tôi xin được tŕnh bày ư kiến của chúng tôi. Ông thuận.
Qua nhiều năm làm việc trong chính phủ, ông hẵn thấy chính quyền miền Nam từ thời Đệ Nhất đến Đệ Nhị Cộng Ḥa đều bị lệ thuộc vào những tính toán chiến lược của người Mỹ tại không phải chỉ ở Việt Nam mà là toàn khu vực Đông Nam Châu Á. Và tính toán nào th́ cũng qui về quyền lợi chính trị, quân sự và kinh tế của nước Mỹ trước tiên.
Vào thời điểm cuối tháng Tư tại miền Nam, cả thế giới biết chính quyền miền Nam không tồn tại quá 24 giờ đồng hồ. Trong t́nh thế đó, việc di tản Hạm Đội là khẩn cấp, dù cho có biết mọi việc xấu tốt ǵ về sau th́ chỉ ḿnh ông nhận lấy. Câu hỏi nát óc thứ hai ông phải trả lời lúc bấy giờ là:” Cứu người hay không cứu người?”
Gần 40 năm trước, đại sứ Chiune Surihaga đă nh́n thấy hàng ngàn con người Do Thái hồn xiêu phách lạc, tụ tập bên ngoài rào sắt trước ṭa Đại sứ Nhật Bản tại Ba Lan rồi tại Lituania, mỗi người ch́a tay ra xin ông giúp cho tờ giấy hộ chiếu cứu mạng. Con người kỷ luật và chính trị trong ông Đại sứ nói là nên bỏ mặc những nạn nhân đang kêu cứu đó, nhưng con người nhân bản trong ông nói việc cấp cứu là điều bắt buộc phải làm. Ông làm không phải làm chỉ v́ món nợ người Nhật đối với người chủ ngân hàng người Do Thái từ hồi đầu thế kỷ, mà chính v́ cái thiện tâm và ḷng biết hi sinh v́ người khác. Tại Sài G̣n tháng Tư năm 1975, chính phủ hầu như không c̣n ǵ. Theo luật bang giao quốc tế th́ nơi nào ta không có đại diện chính quyền th́ vị sĩ quan Hải Quân thâm niên tại chỗ tự động nhận lấy trách nhiệm lo cho kiều bào của ḿnh khi họ có yêu cầu chính đáng.
Năm 1964, một chiến hạm của ta đang có mặt ngoài khơi cảng Kompong Thom, Campuchia. Bỗng có một thuyền máy từ bờ chạy hướng ra tàu, theo sau có một tiểu đỉnh vơ trang đuổi theo. Chiến hạm ta cho hạ ngang ṇng súng, hướng về những hoạt động đó trong khi trên cột buồm chính th́ cờ đỏ, cờ chữ B, kéo lên vị trí lưng chừng, hi vọng phía bên kia hiểu đó là dấu báo súng trên tàu đă có đạn, nên phải làm theo lệnh của chiến hạm trước khi lá cờ đó được kéo tận đỉnh.
Trên chiếc thuyền thứ nhất có ba người Việt Nam ra dấu cho biết họ bị tàu cảnh sát địa phương đuổi bắt nên xin chiến hạm có mang quốc kỳ Việt Nam cứu mạng. Thực hư ra sao chưa rơ, hạm trưởng chiến hạm đang có mặt tại chỗ, nhận cả ba người mang về Dương Đông, Phú Quốc, giao cho chính quyền địa phương; thuyền của họ th́ bỏ lại cho tiểu đỉnh vơ trang kia kéo đi. Không lâu sau đó, qua trung gian của lănh sự Pháp tại Sài g̣n, Việt Nam biết những người được cứu đó là 3 hung phạm can tội giết người trong một án mạng tại Nam Vang, liền đồng ư giải giao tất cả họ về chính quyền Nam Vang xét xử.
Tại Sài G̣n lúc bấy giờ, ông đă hành xử đúng theo qui định trên. Đâu quen biết những người đang trên đường chạy chết. Lúc bấy giờ, ông chỉ thấy đó là người Việt Nam, những người không có tiếng nói nào ngoài nét hoảng hốt trên mặt tất cả lớn bé trẻ già th́ ông động ḷng và theo tiếng nói của lương tâm mà hành xử với phương tiện ông có trong tay. Chuyện đại sứ Nhật Chiune Surihaga không quen biết những người Do Thái hồi năm 1939 nhưng ông có con dấu và ḷng nhân. Niên trưởng tôi không quen những người đang chạy nạn hồi cuối tháng Tư năm 1975 nhưng ông có chiến hạm và tấm ḷng nhân và sự dám hi sinh thân thế của ḿnh v́ việc nghĩa. Ông đă đánh đổi cả một đời binh nghiệp của ông để cứu ngần ấy con người trong trường hợp cần phải cứu. V́ rằng nếu ngày ông quyết định ra đi mà Sài G̣n không sụp đổ th́ cái ǵ sẽ xảy ra cho bản thân ông th́ ông đă có nói rơ: bị truy tố ra Ṭa Án Mặt Trận.
Nghe tŕnh bày ư kiến của chúng tôi xong, ông nói một câu tiếng Pháp nguyên văn là: “Nhiều khi ta phải biết cải lệnh để cứu văn quyền lợi của quốc gia” [1]Và quyền lợi của quốc gia trong thời chiến là cái ǵ gây bất lợi cho kẻ thù.Thế nhưng ông cũng can đảm xác nhận quyết định của ông lúc bấy giờ là vô kỷ luật. Ông nói:” Ngày đó, chính quyền ông Dương văn Minh trên danh nghĩa th́ vẫn c̣n. Tôi ra lệnh cho Hạm Đội lên neo chỉ là để nhanh chóng đưa tài sản quốc gia là các chiến hạm, trên đó có người tị nạn chiến tranh, đến một nơi an toàn hơn Sài G̣n lúc bấy giờ và nơi đó là Phú Quốc. Điểm tập trung các tàu là Côn sơn. Ư định lúc bấy giờ chỉ có thế, nghĩa là Hạm Đội được bảo toàn tối đa và sẽ trở lại khi t́nh h́nh cho phép.” Ông nói đúng. Để cứu thủ đô đang bị nguy khốn, Bộ Binh có thể rút về mật khu c̣n Hạm Đội với hỏa lực tầm xa của ḿnh không thể nằm tại thủ đô mà phải tạm thời di tản toàn bộ đến một vùng an toàn là biển. Ông đă làm như vậy và sau đó chưa đầy 24 giờ th́ mọi sự đă an bài, rồi tất cả những người tị nạn thay v́ được đưa đến Phú Quốc, phải ly hương kể từ đó.
Khi định cư tại Hoa Kỳ, ông sống âm thầm với việc làm chân tay. Một ít anh em thỉnh thoảng rủ nhau đến thăm th́ thấy tính ông vẫn như xưa: cương trực, niềm nỡ và kể chuyện ngày xưa với trí nhớ vô song của ông. Một lần theo anh em đến thăm ông tại Bakerfields, miền Nam California, trong khi nói chuyện xưa, chúng tôi hỏi ông có nhớ tên tiếng Pháp của chiếc trục lôi Hàm Tử 1 ông phục vụ năm 1954 là ǵ th́ ông nói ngay là Aubépine, tên một loài hoa dùng dặt cho một chiến tàu có 300 tấn mà ông nhớ lâu đến hơn 50 năm! Điều này chứng tỏ ông tha thiết đến từng nơi có dấu chân ông, đến từng những ǵ thuộc về ông. Một người bạn cũ cùng khóa tôi nói: “ Tôi giải ngũ lâu lắm rồi mà có lần tôi vào Biệt Khu Thủ Đô Sài G̣n có chút việc th́ gặp ông đang ngồi xe từ trong chạy ra. Tôi cúi đầu chào ông và, anh biết không, ông cũng cúi sát đầu chào trả lại tôi.” Và ở cấp chức của ông, ông c̣n biết nhiều chuyện thuộc thâm cung bí sử mà ông c̣n nhớ như in, nhưng giữ trong ḷng. Tiếc là trong anh em chúng tôi không ai có khả năng viết lách để đến xin ông những chi tiết bao trùm cả hai nền Cộng Ḥa về viết thành sử liệu cho con cháu mai sau.
Nh́n cảnh sống của ông trong hiện tại, chúng tôi trực nhớ trước kia tuy mang ba ngôi sao trên mỗi vai, ông chỉ sống với những ǵ quân đội cấp cho ông. Ông đi đạo Chúa nhưng chắc ông biết triết lư nhà Phật có nói “Đau khổ là có thật; nó không phải chỉ đến từ khát vọng không cùng của con người mà chính là từ ḷng ta luyến tiếc—hay là tự lệ thuộc ta vào--những ǵ không thường c̣n ở trần thế này. Ông sống b́nh thản, không tự lệ thuộc ḿnh vào những ǵ không cần thiết cho đời sống và công vụ. Ông không truy t́m danh phận mà chỉ nhận làm tốt những ǵ quân đội và chính phủ giao ông đảm trách. Đó là con người thuần khiết theo đúng nghĩa triết học của danh xưng. Năm 1975, khi ông đang ở chức Tư Lệnh Hải Quân th́ nội bộ có vụ lủn củn khiến ông phải rời chức vụ. Phe đảo chính ông không t́m ra một khuyết điểm nào của ông cả bèn nói ông dung túng nhân viên ông làm điều sai trái. Chúng tôi không được thuyết phục với lời tố cáo trên đây. Có anh em đứng ra chống lại phe làm đảo chính, đưa t́nh thế đến mức nồi da xáo thịt. Ông đồng ư rút lui. Về sau găp ông, chúng tôi hỏi cho rơ nguyên do thật của nội vụ, nguyên do mà không ai hơn ông phải biết rơ. Ông chỉ trả lời với 2 chữ:” Ngoại bang.” Chúng tôi tin. Trong quân chủng, không thiếu anh em v́ không được ḷng “Ngoại bang” mà bị bứng đi, không th́ ngồi chơi xơi nước! Thời đó có người nói với giọng tếu rằng :” Bộ óc của ai đó nằm ở mông: nó luôn nhớ chiếc ghế!” Ông th́ ngược lạï. Khi công vụ cần ông th́ ông làm, khi không cần nữa th́ ông đứng dậy ra đi, nhẹ nhàng, không thắc mắc.
Năm 2004, anh em giúp ông tổ chức tại Nam California tiệc mừng năm ông lên thượng thọ, tính theo tuổi ta. Đó là mức đo t́nh cảm anh em đối với ông. Ngày đó, chỉ báo trước có hai tuần mà không ít người từ nhiều tiểu bang khác cũng sang Nam California góp mặt chia vui với ông. Trong giấy báo có vơn vẹn 40 chữ lời mời với yêu cầu không nhận quà biếu mà anh em mang đến cho ông nhiều thứ quư giá đếm khá lâu mới hết.
Trong phim Conspiracy of Kindness có cảnh trưởng lăo Ra-bai thay mặt toàn thể cộng đồng Do Thái đứng run run nói: “ Thưa ông Đại sứ Chiune Surihaga , khi ông sống trong túng thiếu, chúng tôi đă dường như không nhớ đến ông. Ngày nay th́ con cháu chúng tôi thành đầy đàn cũng nhờ ơn ông mà có được, xin ông nhận nơi đây ḷng tất cả chúng tôi tri ân ông măi măi.” Và dường như không ít người Do Thái khác cũng có ḷng biết ơn người từng cưu mang giúp đỡ họ trong cơn hoạn nạn như thế [2]
Giống như một ít sắc dân, người Do Thái ít được nhân dân thế giới ưa chuộng, nhưng họ rất ṣng phẳng và biết điều nếu người khác biết tôn trọng quyền sống của họ như tôn trọng quyền sống của những ai khác [3]
Sau hơn 60 năm, số 2,139 + gia đ́nh người Do Thái đă thành “đầy đàn”, trong khi nhiều chục ngàn người Việt được Đô Đốc Chung Tấn Cang giúp di tản tháng Tư năm 1975 th́ sau hơn 30 năm là bao nhiêu đàn? Giả dụ năm 1939 tại Lithuania mà ông đại sứ Chiune Surihaga v́ muốn bảo vệ tương lai chính trị của ḿnh mà không dám kư một tờ chiếu khán nào cả th́ số phận của hơn 2,139 gia đ́nh người Do Thái đó sẽ ra sao? Và tại Việt Nam, ngày cuối tháng Tư năm 1975, nếu không một ai dám ra lệnh cho Hạm Đội lên neo th́ hàng chục ngàn gia đ́nh người Việt Nam chạy nạn đang ở trên tàu sẽ đi về đâu ? Trong trường hợp đó thành thật mà nói, số người ra đi không có là bao. Thế nhưng, dường như cơ trời không hề muốn như vậy mới có sự hiện diện của ông trong ngày đó.
Khi sống, đại sứ Chiune Surihaga sinh hoạt âm thầm. Sau khi ông qua đời th́ tên ông được dùng đặt tên một con đường ở Latvia, thủ đô xứ Lithuania và tại nước Nhật th́ có một công viên xinh đẹp để tưởng nhớ ông. Niên trưởng của chúng tôi vẫn phần nào c̣n tốt phúc hơn Chiune Surihaga. Ông được anh em bày tỏ ḷng yêu mến khi ông vào tuổi văng niên, nghĩa là ông c̣n được cái niềm vui khi nh́n lại người rồi nh́n lại ḿnh. Và qua những ǵ thấy được trong hiện tại, t́nh cảm này sẽ c̣n măi măi về sau. Người xưa có nói:” Mất thành không sợ; mất dân mới đáng sợ.”
Buổi trưa ngày 29 tháng Tư năm 1975, ông biết thành sẽ mất nên ông đă làm mọi cách để cứu người trong khả năng tối đa của ông có được. Một chiến hạm trên biển êm th́ ai cũng có thể lái được dễ dàng. Khi lâm trận, chiến hạm cần một hạm trưởng tài ba, cả quyết. Trong t́nh thế của ngày 29 tháng Tư, Hạm Đội Việt Nam cần một người gồm hai đức tính trên với tinh thần trách nhiệm cộng ḷng nhân, dám quên thân thế của ḿnh lo cứu nhiều vạn người ra khỏi nơi dầu sôi lửa bỏng. Ở cấp bực cao nhất trong quân chủng lúc bấy giờ, khác với nhiều ai khác, ông có thể đi một ḿnh với vài thủ hạ một cách an toàn và nhanh chóng. Nhưng thay v́ làm vậy, ông nghĩ đến số đông những người ông không quen biết. Ông cố gắng đưa họ đi đến nơi an toàn cho sinh mạng của họ. Ông nói hành động của ông ngày đó là vô kỷ luật v́ nếu t́nh h́nh diễn biến ngược điều ông dư tính th́ ông phải ra ṭa án binh mà trả lời. Đó là v́ tính khiêm hư mà ông nói thế. Sau hơn 30 năm nh́n lại, hẵn chúng ta cũng thấy nếu như ông nói hành động đó là “vô kỷ luật” th́ đó là một “vô kỷ luật” cần thiết, v́ nó mang lại điều lợi cụ thể nhất và thuyết phục nhất cho một số hàng nhiều chục ngàn người cùng một lúc, mà ngoài ông ra th́ khó có ai khác dám nghĩ dám làm.
Thời gian ông lănh đạo quân chủng so với những vị khác ở chức vụ đó là ngắn nhất, không đầy 5% số tuổi của Hải Quân. Cố Tổng Thống Donald Reagan có lần nói:” Thượng Đế có chương tŕnh cho mỗi người trong chúng ta.” Chương tŕnh dành cho vị niên trưởng trên đây không tính bằng thời gian mà tính bằng thiên ư. Nói khác hơn, ông là con người của định mệnh.
Một tư tưởng rất thâm dịu của nhà Phật là "xây cất nhiều chùa không bằng làm phúc cứu được một người". Và ai cũng biết rằng ngày ông đơn phương quyết định cho Hạm Đội lên neo di tản, hi sinh thân thế của ḿnh, ông đă cứu không biết bao là người mà ông không bao giờ quan tâm con số đó là bao nhiêu. Nhưng có người nhớ thay cho ông. Theo tài liệu ghi trong chiến dịch “Operation New Life,” từ mồng 5 tháng 4 tới 1 tháng 11 năm 1975, đảo Guam biến thành một thành phố lều vải khổng lồ. Hơn 150,000 người người Việt di tản t́m tự do đă được đưa đến đây [4] Và ai cũng biết rằng phần lớn những người trong con số thống kê khổng lồ này được đưa đến đảo bằng đường biển, không phải đường hàng không, càng không phải bằng đường bộ.