ĐÊM TRƯỚC ĐỔI MỚI

VietTide

Dưới đây là một số đoạn kư sự được trích từ cuốn ĐÊM TRƯỚC ĐỔI MỚI, do nhiều tác giả biên soạn và do nhà xuất bản Trẻ và tuần báo Tuổi Trẻ phát hành ở Sài G̣n vào tháng 4-2006. Trong bầu không khí mà báo, đài trong nước cố gắng khua chiêng gơ trống để chào mừng "Đại Hội Đảng lần thứ X", sự xuất hiện một cuốn phóng sự “nhắc lại tội lỗi của Đảng CSVN” đối với quê hương, dân tộc th́ đây là một hiện tượng lạ. Lạ v́ trong lúc đảng CSVN cố t́nh bưng bít những tội ác do ḿnh đă gây ra và trong nghị tŕnh Đại hội, chỉ có phần Đảng tự đánh giá 20 năm thành quả (1986-2006) kể từ năm Đổi Mới trở đi, th́ cuốn sách đă đi ngược lại ư đồ này để phơi bầy rất nhiều thảm trạng vốn đă từng xẩy ra trong Thời Bao Cấp:
" Ḥa b́nh rồi, tiếng reo vui chưa được bao lâu th́ người dân hai miền Nam-Bắc phải đối mặt với biết bao gian nan. Cả nước chạy gạo ăn từng bữa. Nhiều người vẫn c̣n giữ những tờ tem phhiếu, sổ gạo ngả mầu ố vàng thời gian, gợi cho họ cả một quăng đời mà người ta quen gọi là thời bao cấp." (Kư ức thời "Sổ gạo"- trang 7)
Lại nữa, cuốn sách này không phải chỉ là một tác phẩm in ấn do nhu cầu tranh chấp phe phái nhất thời nhân Đại hội Đảng sắp họp, giống như vụ PMU 18 trong đó Bùi Tiến Dũng hay Nguyễn Việt Tiến bỗng trở thành những con dê tế thần. Nhóm chủ trương nhà xuất bản Trẻ hầu như c̣n muốn đi xa hơn nữa, qua Lời Nói Đầu của cuốn sách: " Chúng tôi vẫn thấy đây chỉ là một bản khởi thảo cần có kịp thời để nhắc nhớ một thời kỳ, một giai đoạn lịch sử của những năm tháng không thể nào quên. Và v́ mới là khởi thảo, nên cuốn sách có lẽ c̣n chưa tái hiện đầy đủ những ǵ đáng ra phải tái hiện".
Những cái đáng ra phải tái hiện ấy bắt nguồn từ "những chủ trương sai", "hợp tác hóa cưỡng bức", " những tác hại của bệnh nhai lại giáo điều sinh ra mệnh lệnh quan liêu áp đặt" (trang 5), thật ra đă có biết cơ man nào là điều phải nói, phải ghi lại, nói theo như Nguyễn Trăi trong B́nh Ngô Đại Cáo th́ " Độc ác thay : Trúc rừng không ghi hết tội. Dơ bẩn thay: nước bể không rửa sạch mùi.", cho nên sẽ chẳng có riêng một cuốn sách nào dù là một công tŕnh tập thể cũng không thể ghi lại được hết.
Nội dung của cuốn sách tuy chưa bao gồm hết những hoàn cảnh cơ cực mà tập đoàn lănh đạo CSVN đă gây ra cho dân tộc VN trong suốt hơn 10 năm dài đen tối ấy, nhưng với thể phóng sự người thật, việc thật và với cung cách tŕnh bầy giản dị, chân thực, người đọc cũng có thể gợi nhớ được phần nào thực trạng xă hội VN dưới thời bao cấp. Dĩ nhiên thảm trạng xẩy ra trong thời kỳ ấy sẽ c̣n rất nhiều, ai cũng đă nghe, đă thấy, nhất là những người sau biến cố 1975 c̣n kẹt lại, đă phải chịu đựng muôn vàn khốn khó trong nhiều năm trước khi vượt thoát để ra đi. Nói một cách tóm gọn, là đảng CSVN đă gây quá nhiều tội ác, đă đầy đọa dân tộc triền miên trong cả quá khứ cũng như bây giờ. Những thảm trạng học tập cải tạo, đánh tư sản, đầy đọa dân tư sản thành thị đi kinh tế mới...ngày trước, rồi ngày nay, mức độ cách biệt giầu nghèo giữa cán bộ nhà nước với nhân dân cùng khổ ở cả thôn quê lẫn thành thị đă lên tới mức cùng cực, dẫn tới những bi kịch gái quê VN phải đi làm nô lệ dưới h́nh thức cô dâu, ô sin nơi xứ người, công nhân trong các xưởng máy th́ bị cán bộ nhà nước toa dập với đám chủ tư bản người nước ngoài bóc lột đến xương tủy. Đó là chưa kể đến nạn tham nhũng vơ vét tiền của rút ra từ những công tŕnh xây cất, những khu vực khai thác tài nguyên, những nguồn vốn đi vay của nước mgoài mà thế hệ mai sau sẽ phải nai lưng ra trả.
Trong phạm vi của một bài tường tŕnh ngắn ngủi về cuốn sách này, xin trích lại sau đây một vài trường hợp để độc giả tường lăm.
 

****


SÀI G̉N NHỮNG NĂM 1980
Sống giữa Sài G̣n thời ấy, ông giáo Nguyễn Văn Hàng thèm bát cơm trắng và đủ thư ù: cây viết trơn tru, tờ giấy trắng, chiếc lốp xe chưa bị vá, chiếc xích chưa phải lộn...
Hơn 20 năm rồi ông Hàng vẫn c̣n nhớ cái hôm chiếc xe đạp cà tàng bị banh niền. Ông mượn cây kim to và sợi cước dài vật lộn với chiếc lốp suốt đêm. Sáng hôm sau, ông đến lớp mà không cầm nổi viên phấn nhưng không biết phải giải thích thế nào với học sinh. Mấy ngón tay nứt toét, sưng lên. Thế mà ông vẫn ngày hai buổi đến lớp.
Năm ấy, vợ ông sinh con đầu ḷng. Tiêu chuẩn gạo hằng tháng được 13kg/khẩu, nhưng thường chỉ lĩnh được 3kg, c̣n lại qui đổi lúc bo bo, lúc bột ḿ, lúc ḿ sợi vụn, lúc khoai lang... Cả tiêu chuẩn gạo của ông giáo Hàng cũng ưu tiên dành cho vợ, mấy tháng trời ông quên mất trên đời c̣n có món cơm trắng. C̣n thịt chỉ là thứ mơ ước. Một hôm hội đồng giáo viên bỗng nảy ư định biến mơ ước thành hiện thực: nuôi một con heo. Nhưng bằng cách nào? Cả tập thể nhảy vào bàn bạc và quyết định tập thể cùng nuôi. Con heo được nhốt vào khoảng trống giữa hai dăy pḥng học. Ai có thức ăn thừa mang đến, nhưng khổ nỗi nguời không đủ ăn th́ làm ǵ có thừa cho heo? Nhưng rồi vẫn có: nước vo gạo, ruột cá, gốc rau... Nhưng nước vo gạo th́ trong veo, gốc rau th́ cụt ngủn. Con heo con thèm cám như trẻ con thèm sữa.
Một học kỳ trôi qua, con heo chẳng lớn được bao nhiêu. Nhưng đến ngày đến tháng hội đồng giáo viên cũng đành xẻ thịt liên hoan. Thế mà buổi liên hoan vẫn linh đ́nh v́ có được mấy miếng thịt. Thầy Hàng bảo nửa năm rồi ông chưa ngửi được mùi thịt. Nuôi heo cực quá, trường thầy Hàng chuyển hướng "đầu tư" nuôi chó. Ông hiệu trưởng "lư luận": không có ǵ cho chó ăn th́ nó vẫn có thể tự kiếm lấy cái ăn. Tưởng nói đùa hóa ra ông hiệu trưởng đi xin chó con thật rồi gửi nuôi ở nhà bà cụ trong trường. Thầy cô giáo có canh thừa, cá cặn lại gom góp mang đến cho con chó của tập thể.
Cuộc sống cứ thế trôi. Cây vẫn đơm hoa kết trái. Thầy cô cưới nhau trong cảnh mượn của người này chiếc áo trắng, của người kia chiếc cà vạt. Chén, đũa, ly, điă... tập hợp của nhau lại bày cho đủ mâm. Nói thế cho sang chứ khẩu phần mỗi người ăn cỗ cưới chỉ có một rniếng chả gị, một miếng dưa hấu và một quả chôm chôm. Thầy Hàng ra sân trường chặt một cành sứ vào trang trí, quét dọn sơ sơ để biến thành căn pḥng... hạnh phúc. Nhưng chiếc giường quá ọp ẹp, chân găy tự bao giờ. Một ông thầy bạn thân thầy Hàng vốn khéo tay được tín nhiệm giao chăm chút lại "tổ ấm" cho đôi uyên ương. Chiếc giường đến giờ chót đủ bốn chân. Chú rể cười: Xem như xong cái căn bản nhất...
Không chỉ giới công chức, nhà giáo mà giới kinh doanh cũng khốn khó. Khi cuộc cải tạo công thương bắt đầu th́ cuộc sống của ông Trần Văn Thành (nay trú tại 26C, ấp 4, xă Tân Kiên, huyện B́nh Chánh, thành phố Hồ Chí Minh), từng là chủ xe ca chạy tuyến miền Trung, nhà cửa đàng hoàng, thường ăn cơm tiệm, cuối tuần hay đi mua sắm... cũng bắt đầu đổi khác. Sau bữa cơm đạm bạc, cha con đưa đẩy nhường nhau bát cơm độn, ông Thành xách túi ra xe, kéo theo cái nh́n lo âu và tiếng thở dài của người thân. Bởi cái xe của ông quá cũ nát không an toàn khi bắt buộc phải chở quá tải trên những đoạn đường trường, bởi chắc chắn ông sẽ phải cố t́m một vài mặt hàng lậu để bù vào tiền xăng, dầu, bơm vá... Tiền lương của ông mỗi tháng không đủ chi tiêu cho một tuần sinh hoạt gia đ́nh. V́ sao vậy? Ông kể: nối nghiệp gia đ́nh theo nghề lái xe, đến năm 1973 ông Thành sắm được một chiếc xe ca trị giá 3,5 triệu đồng, tương đương hơn 100 lượng vàng thời đó. Đây là một tài sản lớn, nghề khác không dễ có được. Ông Thành được xem là nhà tư sản "nhỏ" và ông đă có thể mơ đến chuyện thành lập một hăng xe. Lúc ấy dân tài xế nói riêng, những nhà buôn, dịch vụ nói chung làm ăn khấm khá. Bến xe miền Tây khi đó có một số hăng xe lớn sở hữu hàng chục phương tiện đắt tiền như Hiệp Thành, Phi Long, Á Đông...không ngừng phát triển.
Nhưng sự phát triển đă dừng lại bởi "sáng kiến" công ty công tư hợp doanh. Tất cả mọi chiếc xe lớn nhỏ dù của ai cũng đều phải đem góp vào công ty. Giá xe do Nhà nước định mà trên thực tế th́ nó chỉ tương đương với 1% giá thật. Đă vậy công ty chỉ mua chịu, trả dần, mỗi lần một ít. Có người đến khi không c̣n ở công ty, hoặc đă chết vẫn chưa được trả hết. Mà dù có được trả hết th́ khoản tiền đó cũng không đủ mua chiếc xích lô. Bán xe xong, ai biết lái xe th́ được nhận làm công nhân của công ty. Lái theo chuyến, ăn lương theo qui định. Ai không biết lái xe th́ coi như mất xe.
Có những ông chủ hăng xe 30-40 chiếc, cai quản hàng trăm lái phụ xe, nay muốn quá giang 30-40 km nếu không mua được vé th́ vẫn bị đẩy xuống bến xe ngơ ngác trong bụi khói. Nhiều ông chủ xe xin măi mới được làm phụ xe, c̣n bị anh lái xe do ḿnh thuê ngày xưa mắng mỏ mỗi khi trái ư.
 

HÀ NỘI SAU NIỀM HÂN HOAN


Bà Đinh Thị Vận - 63 tuổi, phường Tương Mai, Hai Bà Trưng (Hà Nội), là công nhân Nhà máy Dệt 8-3 - vẫn c̣n nhớ sau giải phóng miền Nam, gia đ́nh, cơ quan, khu phố của bà cũng như nơi nơi đều ngất ngây trong niềm hạnh phúc vô bờ. Nhưng sau đấy một vài năm th́ giá cả tăng vùn vụt, cơ quan của bà không việc làm. Nồi cơm của gia đ́nh bà nấu gạo "mậu dịch" (gạo từ kho các cửa hàng lương thực của Nhà nước) hôi đủ các thứ mùi: gián, mốc và có khi là xăng dầu...có khi lẫn những hạt sạn to như hạt ngô. Sau đó gạo mậu dịch cũng thiếu và ngày một lẫn đầy những sắn, ngô, khoai...Hường, con gái bà, từng nói lên mơ ước trong bài văn nộp cô giáo: "Ngày tết em mong sao có một nồi cơm trắng và một bát thịt kho...". Một ước mơ không có trong tâm thức những người trẻ bây giờ, nhưng không phải hiếm thời đó.
Mỗi tháng, theo chỉ tiêu, cả nhà bà Vận được nhận 2kg thịt. Gọi là thịt nhưng toàn mỡ vụn, bạc nhạc và lại chia làm hai lần. Lần nào cơ quan bà cũng chỉ đủ thịt chia cho 2/3 công nhân. Mỗi tổ phải tự bắt thăm. Ai trúng th́ lĩnh trước, không trúng th́ chờ đợt sau. Các chị tiếp phẩm (bộ phận chia thực phẩm) cân hụt mất một lạng, có biết cũng phải cố mà cười. Ngày lĩnh thực phẩm cả nhà cứ phấp phỏng, ŕnh ṃ và hít khói bếp. Rán cho cùng kiệt mỡ, cẩn thận đổ vào liễn rồi bà mới cho "cả làng" muối mắm mặn chát vào kho với mấy miếng thịt để ăn dè. Cả khu tập thể công nhân nhà máy vui như hội. Khu phố lên đèn, ở những gia đ́nh không được lĩnh, có tiếng ch́ chiết của ông chồng nào đó v́ vợ không bốc trúng thăm... Rất nhiều nhu yếu phẩm khác như xà pḥng, ḿ chính, chất đốt... của tất cả cán bộ công nhân viên chức khác cũng như vậy. Có năm ba tháng liền, bà chỉ được lĩnh vải mà không xà pḥng. Có người như cô Hoa chồng chết, nhà có bốn người toàn phụ nữ (mẹ chồng, Hoa và hai con gái) nhưng khi lĩnh tiêu chuẩn quần áo lót th́ toàn quần đùi, áo may-ô và dao cạo râu. Cô Hoa khóc cả tuần liền... Công ty của em bà sản xuất sứ tích điện. Không có tiền, công ty trả lươngï cho công nhân bằng tích điện. Đơn vị có cao su trả bằng cao su, xí nghiệp có mũ cứng th́ trả lương công nhân bằng mũ cứng...Những lúc như vậy lĩnh lương xong cũng không biết đem về đâu, để làm ǵ?
Chuyên gia kinh tế Lê Văn Viện bảo rằng đó là bối cảnh chung của đời sống người dân trước năm 1986. Hầu như những mặt hàng thiết yếu đều đến tay người tiêu dùng qua kênh phân phối bằng hiện vật, tem phiếu và định lượng bằng chỉ tiêu...

( HÀNG CHỨC NGUYÊN- XUÂN TRUNG- QUANG THIỆN-
Kư Ức Thời Sổ Gạo)


CHỈ TIÊU 'ĐỔ THAN"


Câu chuyện thời bao cấp khó tin nhưng có thật: Năm 1979, một công ty khai thác than ở Thái Nguyên được giao chỉ tiêu khai thác 150.000 tấn than. Nhưng năm đó các công ty khách hàng không đủ nguyên liệu sản xuất, máy móc, dây chuyền hỏng hóc... nên hoạt động cầm chừng, không cần nhiều đến than. Sản phẩm của công ty than nọ cứ ngày một chất chồng trong kho băi. Đến lúc kho băi không thể chứa th́ công tác khai thác cũng phải "phanh" dần. Tuy nhiên chỉ c̣n hai tháng nữa là hết năm mà cái chỉ tiêu đó mới thực hiện được hơn nửa. Nỗi ám ảnh không đạt chỉ tiêu đe dọa số phận chính trị của tất cả ban lănh đạo công ty, đến đồng lương tất cả cán bộ công nhân cũng như danh hiệu thi đua của toàn đơn vị.
Không thể "bó tay", ban lănh đạo công ty quyết định ăn ngủ tại công trường, thức trắng đêm cùng công nhân, vượt qua sương muối, gió máy miệt mài khai thác cho bằng đủ chỉ tiêu được giao. Công việc lúc này bận rộn và khó khăn gấp đôi b́nh thường v́ sau khi mất công khai thác, công ty c̣n mất một công nữa là... đổ than đi ! Đổ xuống vực, xuống suối, xuống hang... hay bất cứ đâu cũng được.
Một số cán bộ lăo thành quá bức xúc đă lên tiếng: "Chúng tôi gắn bó với mỏ than từ thời Pháp. Bọn chúng là thực dân, chúng tôi là phu mỏ nhưng cũng chưa bao giờ chúng tôi làm một việc kinh khủng thế này!...". Sự việc cuối cùng cũng đến tai cấp trên. Giám đốc công ty than bị khiển trách. Thế nhưng trong phiên họp tổng kết năm của toàn công ty, ông giám đốc mặt mũi đen nhẻm, hốc hác chạy lên bục phát biểu hào hứng: "Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua, nhưng với tinh thấn đoàn kết, nhất trí cao, chúng ta đă phát huy phẩm chất sáng tạo, nỗ lực lao động và đă hoàn thành tốt chỉ tiêu cấp trên giao. Tỉnh đă có bằng khen cho tất cả các đơn vị hoàn thành chỉ tiêu."
Ông Bùi Văn Long, nguyên tổng giám đốc Liên hiệp Dệt Việt Nam (tiền thân Tổng công ty Dệt may), vẫn c̣n ám ảnh những con số chỉ tiêu: Dệt Thành Công được giao chỉ tiêu sản xuất 3 triệu m2 vải/năm. Nhưng khi 1/3 dây chuyền đắp chiếu v́ không phụ tùng thay thế, vốn lưu động Nhà nước cấp không nổi 1/2 nhu cầu th́ cái chỉ tiêu ấy vẫn giữ nguyên. Đến lúc công ty khắc phục được khó khăn, năng lực dư thừa, thị trường "cháy" hàng th́ chỉ tiêu ấy cũng không thay đổi.
Hai chữ "chỉ tiêu" trở thành "ṿng kim cô" khủng khiếp trùm lên toàn bộ mọi hoạt động sản xuất. Nhà nước cung cấp nguyên nhiên vật liệu và vốn lưu động mỗi năm cho doanh nghiệp, kèm theo một con số sản phẩm nhất định mà doanh nghiệp phải làm ra rồi cũng nộp cho Nhà nước. Tuy nhiên, do thiếu tất cả mọi thứ, cộng với phương thức quản lư "của chung" nên hầu như không bao giờ những ǵ Nhà nước giao tương ứng với những ǵ Nhà nước muốn thu lại từ doanh nghiệp. Và những chỉ tiêu này cũng hủy diệt gần như hoàn toàn mọi sáng tạo, năng động của doanh nghiệp.
Chuyên gia sử kinh tế Đặng Phong kể lại câu chuyện cao su chạy từ Nam ra Bắc rồi quay lại Nam cũng chỉ v́ cái "ṿng kim cô" chỉ tiêu: Xí nghiệp Đồ hộp Xuất khẩu thành phố Hồ Chí Minh v́ thiếu miếng lót cao su dưới nắp hộp trái cây xuất khẩu nhưng đến mua ở Công ty Cao su miền Nam th́ không được. Lư do: không có chỉ tiêu kế hoạch. Xí nghiệp cầu cứu ủy ban Kế hoạch thành phố th́ nơi đây chuyền "quả bóng" cho ủy ban Kế hoạch nhà nước. Sau khi cân đối đầu ra - đầu vào, ủy ban Kế hoạch nhà nước đồng ư giao chỉ tiêu 300kg mủ cao su cho xí nghiệp nhưng đó là chỉ tiêu cho năm tới. Hỡi ôi, trái cây không thể chờ sang năm mới đóng hộp xuất khẩu. Xí nghiệp không thể chịu chết v́ cái chỉ tiêu kế hoạch vô hồn. Bà giám đốc xí nghiệp sực nhớ có quen ông giám đốc Nhà máy cao su Sao Vàng Hà Nội. Đánh liều bay ra đàm phán với "ông Sao Vàng", "bà Đồ Hộp" vay được 300kg mủ cao su, quí ơi là quí. Sau đó xí nghiệp không có mủ mà trả, đành trả bằng đồ hộp. "Ông Sao Vàng" càng mừng v́ có quà cải thiện đời sống công nhân.
Cuộc sống quá khốn khó, động lực sản xuất, tinh thần trách nhiệm ngày một tiêu hao, nhiều căn bệnh phát sinh ở hầu hết các nhà máy xí nghiệp. Điển h́nh nhất là tệ ăn cắp. Ông Nguyễn Xuân Hà (nguyên giám đốc Công ty dệt Thành Công) vẫn c̣n nhớ kỷ niệm buồn: năm 1982, khi ông chuyển sang làm giám dốc Công ty dệt Thắng Lợi, có 5.000 công nhân nhưng tệ nạn trộm cắp trong nhà máy quá mức khủng khiếp. Trong ba tháng thực hiện "bàn tay sạch", nhà máy bắt được 15 kẻ gian trong đó có năm đảng viên. Thậm chí cả bí thư chi bộ cũng lấy cắp mô-tơ. Trộm cắp được lập thành băng nhóm trong cơ quan, liên kết với bên ngoài và thực hiện bằng các thủ thuật rất tinh vi. Nhưng khi t́m hiểu th́ hầu hết thủ phạm đều từng là những người lao động rất tốt nhưng v́ hoàn cảnh túng bấn nên họ nhắm mắt làm liều.


XE CHẠY XĂNG THÀNH... CHẠY THAN


Ông Trần Văn Khang, nguyên giám đốc Công ty công tư hợp doanh Điều hành bến xe miền Tây, nói: "Sau giải phóng vài năm th́ xăng không đủ cấp cho xe chạy. Những xe chạy xăng thời đó là loại hiện đại, máy móc tốt, chẳng lẽ để đắp chiếu. Một đề tài khoa học rất... nổi tiếng thời đó có khả năng biến loại động cơ hiện đại lùi lại hàng trăm năm đă được áp dụng. Đó là cải tạo xe chạy xăng thành... chạy than. Thế là từ vận tốc 70-lOO km/h thành 20-35 km/h. Từ êm nhẹ, chiếc xe thành con quái vật không ngớt kêu gào. Xe chạy đến đâu, lửa, xỉ than rơi văi ra đường đến đó và lửa từng làm cháy rừng khi đi qua rừng núi. Hành khách, nhà xe mặt lúc nào cũng đen như người âm phủ. Gặp dốc lớn, tất cả lại xuống xe: 1 2-3 ḥ dô ta... đẩy xe lên dốc.”
Bến xe miền Tây (TP.HCM) hai mươi mấy năm trước, thành phố chỉ có 1/4 lượng khách so với bây giờ, nhưng cảnh chen chúc vạ vật của người chờ xe không khác ǵ chạy loạn. Nhiều người đi từ tờ mờ sáng, ngoài tư trang, hàng hóa, họ c̣n đem theo một viên gạch. Đến cửa quầy bán vé khi trời chưa rơ mặt người, hành khách đă đua chen nhau đặt ḥn gạch để xí chỗ xếp hàng mong mua vé trước. Vậy mà không ít người đợi đến 2-3 ngày vẫn không mua được vé, đành ra về. Lễ tết th́ khỏi phải nói.
Bến xe phía Nam (Hà Nội) cũng y như thế. Thời bao cấp không mấy khi hành khách mua được vé trực tiếp từ bến xe mà chủ yếu là vé chợ đen. Riêng bến xe Kim Liên - Hà Nội (cũ) lúc nào cũng có 5-7 băng nhóm phe vé. Mỗi nhóm 5-7 người. Bọn họ bám chặt và sống kư gửi vào bến xe này với công việc duy nhất: mua càng nhiều vé xe càng tốt. Ngày đó những cảnh như một bà lăo c̣ng lưng dốc hết tay nải dể t́m những đồng tiền cuối cùng nhưng vẫn không đủ đ̣i hỏi của tay phe vé. Bà phải rớt chuyến. Những hành khách tội nghiệp như bà, vừa khóc vừa liêu xiêu giữa bến xe chiều, không phải là chuyện hiếm.
Lái xe Trần Văn Thành than: Hành khách khốn khổ th́ phận lái xe cũng rất khốn nạn. Săm lốp, phụ tùng, thùng, máy, xăng dầu... đều được tính theo chỉ tiêu (tính số kilômet vận hành để được cấp mới hay trung, đại tu) nhưng cái chỉ tiêu ấy chỉ có thể áp dụng trên giấy v́ nó rất phi lư. Hỏng hóc thiếu thốn, chắp vá đủ kiểàu nhưng vẫn không thể sống được. Nhiều người bỏ xe giữa đường, bỏ nghề, bỏ cơ quan về luôn. Mấy tháng sau, do địa phương yêu cầu, công ty mới cho xe ra kéo cục sắt ấy về. Ai không dám bỏ nghề th́ buộc phải bỏ tiền túi mà chữa xe. Tiền đâu? Lại phải buôn hàng lậu (thật ra chỉ là gạo, thịt, mắm muối, xà pḥng...) hay bắt thêm khách, lại phải lo lót luồn cúi... Trong giới lái xe cũng có rất nhiều người đă phải bán nhà để sửa xe cho Nhà nước. Cho đến tận bây giờ nhiều người khi đă bỏ nghề chạy xe vẫn không mua nổi căn nhà cũ để ở.
(XUÂN TRUNG- QUANG THIỆN- Ṿng Kim Cô )
 

THỜI CỦA TRẠM GÁC


Một chiếc xe tải lấm đầy bùn đất xịt khói đen chạy ầm ầm qua đường. Thùng xe bịt một tấm bạt lớn đập phần phật. Đi ngược nó là đoàn xe công tác của cán bộ. Và lập tức ông cán bộ cho quay xe đuổi theo. Đến ngang chừng chiếc xe tải, ông rút súng ngắn chĩa lên trời bắn ba phát đạn đanh gịn rợn tóc gáy. Chiếc xe tải sợ hăi dừng lại. Người rượt đuổi là một ông Phó chủ tịch UBND tỉnh muốn kiểm tra hàng lậu. Ông Chín Cẩn (Nguyễn Văn Chính), nguyên bí thư Tỉnh ủy Long An, kể lại câu chuyện mà ông được chứng kiến tại tỉnh ḿnh vào thời kỳ bao cấp với mệnh lệnh cấm buôn bán tự do như thế.
Chiếc xe tải đó thật ra giống như bất cứ phương tiện nào. Cứ có dấu hiệu chở được thứ ǵ đó th́ sẽ bị cán bộ kiểm tra. Bởi tất cả mọi thứ hàng hóa không phải của ngành thương mại th́ đều là hàng lậu. Trong khi cuộc sống đang cần càng nhiều hàng th́ nguồn cung từ quốc doanh chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ. Chính v́ vậy mà gạo, thịt, bánh kẹo, bột giặt, áo quần, mũ dép... đều có thể là hàng lậu ở bất cứ nơi nào, lúc nào... Thời đó, người dân nào cũng có thể là "con phe" (dân buôn lậu) nên cán bộ chống buôn lậu rất nhiều. Công an, thuế vụ có thể kiểm tra xét hỏi bất cứ chiếc b́, thúng, sọt, túi... của ai, ở đâu.
Ngoài hai lực lượng này, mọi cán bộ nhà nước đều có thể bắt hàng lậu. Ông Chín Cẩn kể: "Một đoạn đường vài cây số nhưng có tới hơn chục trạm gác kiểm soát hàng hóa. Những trạm gác này thường bắt được những ông cán bộ mặc quần hai lớp để đựng gạo, chị hàng thịt cuốn quanh người những tảng mỡ heo rồi mặc áo trùm bên ngoài. Và đặc biệt nhất là chuyện chở heo trốn qua trạm gác. Một con heo 60 kg đă mổ thịt lấy đi ḷng tiết, chở ra chợ bằng cách chằng sau yên xe với tư thế giả làm người ngồi chạng chân sang hai bên. Áo mưa trùm kín "người" rồi đội cho chú "heo người" một cái nón lấp mặt. Khi qua trạm gác, trời mới tang tảng sáng, người "mẹ" vừa đạp xe vừa quàng.tay ra phía sau vỗ về và nhắc nhở "con", đóng giả mẹ chở con đi học. Tuy nhiên cái cảnh "gia đ́nh đằm ấm" ấy sau cũng bị cán bộ phát hiện. Và người dân lại t́m những cách khác để đối phó với mạng lưới chống buôn lậu. Mục đích cuối cùng của người dân chỉ là mong bán được những thứ ḿnh làm ra để lo cho cuộc sống.
 

MUA NHƯ CƯỚP


Thời ấy, bà Tư Tây, nông dân ấp Ḥa Thạnh, xă Ḥa B́nh Thạnh, huyện Châu Thành (An Giang) có 50 công ruộng. Mỗi năm thu hoạch hơn trăm giạ lúa. Theo qui định của Nhà nướùc, nhà bà chỉ được giữ lại khoảng 6O% (đủ để ăn), số c̣n dư buộc phải bán cho Nhà nước. Giá bán thấp hơn tiền vốn bỏ ra, nên nhà bà cũng như tất cả những nông dân trong vùng đều cố gắng t́m cách giấu lúa không cho chính quyền biết. Cuối vụ, từng đoàn cán bộ, có khi cả du kích đeo súng vào từng nhà đo bồ lúa (kiểm tra lúa). Ai thừa định mức bị buộc phải bán tại chỗ. Có vụ, nhà bà phải xay thành gạo và giấu trong tủ thờ. Đến khi mở ra th́ chuột ăn hết quá nửa. Có nhà, vợ giấu gạo, cầm ch́a khóa đi vắng, chồng con ở nhà phải nhịn đói...
Để giấu lúa qua trạm, thời đó bà con thường làm ghe, xuồng có hai đáy, khi vận chuyển th́ đổ trấu lên đáy trên, đựng lúa ở đáy dưới. Trong nhà th́ họ khoét rỗng đống rơm rồi thả lúa vào giữa... Người dân Bến Tre thường đi xuồng xuống Cà Mau mua lúa. Mỗi chuyến đi cả trăm cây số nhưng cũng chỉ có thể mua 1 tạ trở xuống. Dọc tuyến đường độc đạo này có rất nhiều trạm gác. Có lần một bà nông dân bị cán bộ phát hiện chở lúa. Cán bộ bê bao lúa lên th́ bà ta ngất xỉu."Họ uất ức quá, gia đ́nh đói khổ, quần áo te tua, đi mấy ngày mới tới Cà Mau, cả tuần lễ mới mua được b́ lúa. Cả nhà trông vào đó..."
 

BÁN NHƯ CHO


Nhà có con rể mới từ chiến trường trở về, bố vợ muốn mua tặng con một đôi dép nhựa và sắm thêm đôi chiếu cói. Ôâng đi bộ 18km để lên cửa hàng mua bán của huyện. Tới nơi, cô mậu dịch viên vừa cắm cúi thêu khăn vừa nói vọng lên: "Hết hàng!". "Vậy đôi này th́ sao?". Hỏi đến ba lần ông mới được cô ta gắt lên: "Mắt ông để đâu vậy? Không nh́n thấy bảng "Hàng mẫu không bán" à?". Về nhà có người mách ông phải gặp kẻ môi giới và trả thêm tiền mới mua được. Chạy vạy mấy ngày, trả thêm gấp đôi tiền cùng rất nhiều lời cảm ơn cảm tạ, cuối cùng ông cũng mua được đôi dép và cặp chiếu cói. Câu chuyện trên của ông Nguyễn Đ́nh Kiên, xă Gia Trung, huyện Gia Viên (Ninh B́nh) về t́nh trạng quá b́nh thường của bản thân ông cũng như của tất cả mọi người sống trong thời bao cấp.
Ai mua thứ ǵ cũng phải đến hợp tác xă mua bán hay cửa hàng mậu dịch quốc doanh. Mua cây kim, cuộn chỉ hay cái bấc đèn cũng cực kỳ khó khăn. Nhà nước bán hàng dưới giá thành và cũng thấp hơn giá chợ (bán phân phối), hàng hóa không đủ 1/10 nhu cầu nên nhân viên thương nghiệp kênh kiệu, xem thường khách hàng vô cùng. "Bán như cho" là lời cửa miệng đầy xót xa của thời ngăn sông cấm chợ lúc bấy giờ.
Các chuyên gia kinh tế bao cấp nghĩ rằng Nhà nước bán rẻ (dưới giá thành) cho dân những mặt hàng thiết yếu th́ Nhà nước cũng phải mua sản phẩm của họ với giá rẻ (dưới giá thành). Phần chênh lệch sẽ được tính tương đương nhau, không bên nào bị thiệt mà vẫn ổn định được nhu cầu của ḿnh.
Cả xă hội lúc ấy trở thành một thị trường mua không được, bán cũng không xong. Và khi không đủ hàng hóa để cung cấp, sự thất thoát giữa các khâu phân phối trung gian quá lớn th́ thương mại quốc doanh trở thành một thứ ân sủng đối với nguời tiêu dùng. V́ thế thị trường tự do không thể bị xóa bỏ triệt để nhưng cũng không ngừng bị bóp nghẹt. Nó đă đẻ ra môi trường màu mỡ cho những thủ đoạn tiêu cực như móc ngoặc, chà đạp, tham ô, đầu cơ. Hàng hóa đă khan hiếm lại bị đủ thứ tṛ mánh mung, thiệt tḥi nhất vẫn là kẻ mua mà mặt mày thường cứ như người "mất sổ gạo".

( XUÂN TRUNG-QUANG THIỆN- Mua như cướp- Bán như cho)


TRẢ LẠI NÔNG CỤ CHO DÂN


Linh hồn của hợp tác xă và các tập đoàn sản xuất là công hữu hóa tư liệu sản xuất (ruộng đất và nông cụ). Cuối năm 1978, An Giang quyết định thành lập hợp tác xă Ḥa B́nh Thạnh, huyện Châu Thành làm nhân tố điển h́nh để mở rộng phong trào hợp tác hóa.
Ông Sáu Kiệt, nguyên chủ nhiệm hợp tác xă Ḥa B́nh Thạnh, huyện Châu Thành, An Giang, kể: vận động bà con vào hợp tác xă, công an c̣n phải đứng bên bờ yêu cầu nông dân phá hết rau để giao đất cho hợp tác xă. Ông Nguyễn Ngọc Tŕu, nguyên bộ trưởng Nông nghiệp, từng chứng kiến cảnh hai vợ chồng có một con trâu, chồng nghe theo vận động, vào hợp tác xă, vợ th́ không. Khi ra đồng, chồng đ̣i dắt trâu cày cho hợp tác, vợ giằng lại thừng để cày cho ruộng nhà. Không thể chống nhiệm vụ được hợp tác xă giao, chồng phải trói vợ giữa đồng để cày xong mới thả cả người lẫn trâu... Rồi mạ chết rét, thời vụ sắp hết, loa hợp tác xă gọi xă viên ra đồng cấy dặm, nhưng từng đoàn người uể oải dắt díu nhau như đi hội. Vừa làm vừa ngẩng đầu tán gẫu chờ kẻng nghỉ trưa. Và dù không thiên tai th́ năm nào cũng như mất mùa... Cảnh cha chung không ai khóc bao trùm lên tất cả các hợp tác xă lúc bấy giờ. Cuối mỗi buổi làm, cán bộ hợp tác xă ghi điểm từng người. Chỉ cần đánh trống ghi tên là được. Điểm này sau qui ra thóc với giá rất rẻ rúng. Làm ăn như vậy, cuối vụ thóc thu về bằng 1/4 thời chưa vào hợp tác. Ai dành dụm được chút lúa th́ phải bán cho Nhà nước, cấm mang ra chợ. Giá Nhà nước mua chỉ bằng 1/10 giá chợ và không đủ hoàn vốn đầu tư.
Thời trước bà con xă Ḥa B́nh Thạnh đă đầu tư rất nhiều máy móc phục vụ sản xuất. Toàn xă 900 hộ có hơn 70 cỗ máy cày bừa, bơm, xới... Vận động bà con vào hợp tác xă rất khó nhưng lănh đạo ra chủ trương bằng mọi giá phải công hữu hóa hết số máy móc nông cụ. Tất nhiên việc ấy th́ làm được nhưng hầu hết các chủ máy đều rất miễn cưỡng vào tập thể. Họ nói đây là thứ tài sản lớn, nhiều năm chắt chiu mới có được.Thứ hai phải "hiểu" nó, "yêu"' nó th́ nó mới sống mà nuôi người được. Nay đă vào hợp tác, thu nhập tính bằng công lao động, máy giao người khác như vậy là họ mất không... Thế là dù phải nộp máy cho hợp tác nhưng họ cố t́nh tháo bớt phụ tùng. Có người chặt gần đứt cả xích, cưa cả trục máy rồi mới giao hợp tác xă. Số máy có thể hoạt động th́ những chủ cũ không chịu điều khiển hoặc không được điều khiển nên giao cho chủ mới. Chủ mới thường thiếu kỹ thuật hoặc thiếu tâm huyết nên chẳng mấy chốc cũng lại để đắp chiếu. Thế là sau một vụ, 100% đầu máy nông nghiệp của xă phải nằm kho, hàng trăm hec-ta đất không làm kịp vụ phải bỏ hoang.
Ông Nguyễn Văn Hơn, nguyên bí thư Tỉnh ủy An Giang, nhớ rất rơ: lúc ấy tỉnh gần như hoàn thành chỉ tiêu hợp tác hóa bằng các tập đoàn sản xuất và hợp tác xă. Nhưng đồng hành với việc này là 20.OOO ha diện tích đất bỏ hoang (chiếm gần 10% tổng diện tích) v́ lư do trên. Không có cách nào khác để khắc phục ngoài việc phải trả máy cho dân. Tuy nhiên, ư tưởng này là trái với ư chí công hữu hóa tư liệu sản xuất. Ông Hơn yêu cầu phải nghĩ cách. Ban đầu tỉnh xin Nhà nước kinh phí để mua máy mới và sửa chữa máy cũ v́ an ninh lương thực bị đe dọa. Tất nhiên trung ương lúc ấy lấy đâu ra ngân sách đề mua máy nên đă trả lời không có. Vậy các tập đoàn, hợp tác xă muốn hoạt động được phải bỏ tiền ra mà mua, mà sửa máy. Tỉnh ra công văn yêu cầu những đơn vị đó thực hiện ngay......

( XUÂN TRUNG - QUANG THIỆN- Công phá lũy tre)
 


HÀNH TR̀NH CỦA BAO MIẾN (Bún tầu)


Năm 1979 khi tôi đang công tác tại thành phố Hồ Chí Minh, được nghỉ phép về quê tại Nghĩa Đàn (Nghệ An). Chuyến về quê nghỉ phép năm ấy tôi không bao giờ quên v́ suưt nữa tôi đă phải ngồi tù.
Ngày ấy cánh lính chúng tôi mỗi khi có việc (nghỉ phép hoặc công tác) ở các tỉnh phía Bắc phải đi tàu hỏa. Xuống tàu tại ga Vinh, tôi khệ nệ nào ba-lô, đồ đạc lỉnh kỉnh, vác bao miến "đặc sản Hố Nai" trên vai đến bến xe khách lấy vé về quê mặc dù cực khổ nhưng trong ḷng rất phấn khởi v́ sắp được gặp lại những người thân, đặc biệt là lại có bao miùến làm quà.
Khi xe chạy vào địa phận Nghĩa Đàn chưa được 1 km th́ xuất hiện một trạm gác (thời ngăn sông cấm chợ nhiều trạm gác lắm). Dân địa phương gọi trạm này là trạm Khe Son. Trước tiên là cần rào cản barie, được làm bằng nguyên cả cây tre, bổ xuống chắn ngang đầu xe. Chiếc xe dừng hẳn lại, hành khách lục tục xuống xe nhưng đa số vẫn ngỗi yên. Một người đàn ông chừng 40-50 tuổi, chẳng biết là nhân viên thuế hay quản lư thị trường, buớc một chân lên cửa xe quát:"Tất cả xuống để kiểm tra hành lư !". Đến lúc này hành khách mới miễn cưỡng rời ghế xuống xe. Tôi là người rời xe sau cùng. Hai, ba người đàn ông hùng hổ bước lên xe, lục tung mọi đồ đạc hành lư của hành khách, nhiều đồ dạc bị lôi xuống, tôi nh́n thấy có những nồi đất đựng cá nướng của bà con vùng biển mang lên bán cho vùng núi, mỗi nồi chỉ khoảng 3-4 kg cá, mà vẫn bị lôi xuống và bị gọi là hàng cấm, có thể bị tịch thu. Tôi đang ngạc nhiên về điều đó th́ nghe tiếng quát của một nhân viên: "Cái bao bố này của ai?". Tôi chạy lại nói của tôi. Ông ta hỏi tiếp: "Cái ǵ trong này ?". Tôi trả lời là miến, tôi mang từ trong Nam ra để làm quà cho gia đ́nh. Ông ta khẳng định: "Miến làm bằng gạo, là lương thực, là hàng cấm lưu thông, chỉ có Nhà nước mới được vận chuyển từ tỉnh này qua tỉnh khác, anh đă mang hàng không được phép, chúng tôi lập biên bản tịch thu". Tôi giải thích đây là miến chứ không phải gạo, hơn nữa số lượng không nhiều, không phải mục đích buôn bán ǵ, chỉ làm quà cho gia đ́nh, nhưng ông ta cũng không cho, buộc tôi phải đưa xuống trạm để lập biên bản. Tôi nhất quyết không chịu. Ông ta nắm bao bố định kéo xuống. Tôi giằng lấy bao miến, nh́n thẳng vào mặt ông ta nói rít qua kẽ răng vừa đủ để ông ta nghe: "Nếu ông dám kéo bao này xuống, tôi sẽ bắn vỡ mặt ông" - vừa nói tôi vừa đưa tay móc khầu K54 (chỉ để ông ta nh́n thấy). Chẳng biết ông ta sợ khẩu K54 hay sợ ánh mắt nảy lửa của tôi lúc đó, chỉ thấy ông ta buông bao miến ra và lặng lẽ bước xuống xe, đi thẳng vào trạm. Tôi thấy ông ta trao đổi ǵ đó với một người khác (có lẽ là người phụ trách trạm). Rồi không thấy ông ta ra nữa. Sau khoảng một giờ đồng hồ lục soát, tiếng quát tháo, tiếng năn nỉ van xin, kẻ chạy ra người chạy vô nhốn nháo, cuối cùng xe cũng được phép chạy và bao miến "đặc sản Hố Nai" của tôi cũng về được nơi tôi muốn. Cho đến bây giờ, đă 26 năm trôi qua, nhưng mỗi khi có dịp được ăn miến gà, miến vịt, miến gị heo... tôi lại nhớ bao miến "đặc sản Hố Nai" và cuộc hành tŕnh gian nan của nó.
(TRƯƠNG ĐỨC THẮNG- Nỗi Niềm Của Tôi)


***
***


Tưởng cũng nên nhắc lại rằng trong nghị tŕnh Đại hội Đảng lần thứ X, người ta thấy có phần đánh giá lại "thành quả 20 năm" của đảng CSVN kể từ giai đoạn bắt đầu đổi mới (1986) đến tháng Tư năm 2006, năm họp Đại hội. Điều này có nghĩa là tập đoàn lănh đạo đảng CSVN đă cố t́nh lờ đi giai đoạn cực kỳ đen tối của hơn 10 năm trước đó (1975-1985), giai đoạn thường được nhân dân trong nước gọi một cách vắn tắt là "Thời Bao cấp", cái thời của mông muội, tối đen với biết bao đổ vỡ, tang tóc đưa nhân dân cả nước đến chỗ khốn cùng mà thủ phạm gây nên không ai khác hơn chính là tập đoàn lănh đạo của đảng CSVN. Nhiều nhân vật cao cấp trong tập đoàn này, ngày nay không c̣n nữa như Tố Hữu, Trường Chinh, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ ...nhưng một số tên tuổi khác th́ vẫn c̣n nhởn nhơ sống ung dung phè phỡn, thậm chí c̣n chường mặt một cách vênh váo trên các báo hay trên truyền h́nh trong những dịp lễ lớn, thí dụ như Cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười, một tên kiến thức th́ ấu trĩ nhưng lại kiêu ngạo, huyênh hoang đă có một thời nắm trong tay vận mệnh của cả nước. Thái độ nhởn nhơ vênh váo này phải được coi như một sự vô sỉ, trắng trợn, vô cảm ngồi xổm lên nỗi đau và oan khuất của biết bao nhiêu thành phần dân chúng đă từng có một thời là nạn nhân dưới bàn tay bạo tàn và khối óc ngu si đần độn của chúng, bởi v́ làm sao người ta quên được những mất mát, những đau thương, những đổ vỡ trong cái gọi là "thời bao cấp" ấy!
Đại Hội Đảng CSVN lần thứ X vừa nhóm họp muốn người dân quên đi tất cả những sự kiện đen tối đó.
Nhưng tang thương c̣n đó, nhân chứng c̣n đó, bút mực c̣n đó. Làm sao CSVN có thể bôi xoá được những trang sử vốn đă in hằn lên tâm khảm của mọi thành phần trong hàng ngũ dân tộc.


PHẠM CAO HÙNG
30-4-2006