THÔNG  TIN Nr.37, 08.2006

Vũ Hoàng Chương:

Con Người Dại Hay Con Người Can Đảm

 

Sông                                                                                    

Nàng trả con về nơi xóm cũ

Nghẹn ngào trở lại đẩy xe nôi

Rồi từ hôm ấy ôm con chủ

Trong cánh tay êm luống ngậm ngùi

Nàng nhớ con nằm trong tổ lạnh

Không chăn, không nệm ấm, không màn

Biết đâu trong những giờ hiu quạnh

Nó gọi tên nàng giọng đă khan

Rồi từ đêm ấy những đêm sau

Hồi hộp nàng ra tựa cửa lầu

Ngó xuống ven trời đầy bóng nặng

T́m nghe trong gió tiếng con đâu

Gió vẫn vô t́nh lơ lửng bay

Những tàu cau yếu sẽ lung lay

Xạc xào động cánh... nàng mơ tưởng

Như tiếng ḷng con vẳng tới đây

Nàng nhớ con u sầu rượi

Gục đầu thổn thức trên bàn tay

Bạn ơi, nguồn gốc sầu kia bởi

Số mạng hay do xă hội này

 

Đây là một trong những bài thơ gối đầu giường của tôi, khi c̣n là học sinh trung học. Ở Miền Nam lúc bấy giờ, những bài thơ hay, được phổ biến của các thi sĩ thời tiền chiến rất được giới học sinh chúng tôi yêu chuộng. Thậm chí có những bài thơ c̣n được đưa vào chương tŕnh học ở nhà trường, bất kể là thi sĩ sáng tác bài thơ ấy đang phục vụ cho chế độ chính trị nào, dù là Miền Nam hay là Miền Bắc.

Bài thơ Vú Em ở trên của nhà thơ Tố Hữu, đối với tôi lúc nào cũng vẫn là một bài thơ hay. Tác giả đă sáng tác bài thơ này trước khi đến với đảng CSVN, tả lại t́nh cảnh một người mẹ trẻ nghèo phải đi ở vú cho người khác, lấy sữa của nàng cho con chủ bú và ấp ủ con chủ trong ṿng tay ấm áp của ḿnh. Trong lúc ấy, con của nàng nơi xóm nghèo "tổ nhỏ", khóc đến khản tiếng v́ đói lạnh và thèm thuồng một ṿng tay ấp yêu của mẹ. Càng nhớ càng thương con bao nhiêu, càng đau đớn bấy nhiêu, nhưng biết làm sao hơn, thôi th́ chỉ biết tấm tức khóc thầm, xót xa cho thân phận hẩm hiu của ḿnh. Cuối cùng tác giả kết luận, v́ đâu mà có cảnh éo le như vậy, phải chăng đó là số phận hay là do cái xă hội bất công này? Đây là một kết luận nhân bản và đấy ắp t́nh người. Xa hơn, qua bài thơ, tác giả muốn nhắn nhủ với những ai đă từng là nạn nhân của đói nghèo và cam phận, của áp bức và bất công hăy tự thoát ra làm chủ cuộc sống, làm chủ đời ḿnh, đừng vịn vào số phận để rồi cam chịu.

Nhắc lại bài thơ trên như nhắc lại dĩ văng một thời mà đối với tôi chỉ c̣n là vang bóng, nó đă gợi cho tôi sống lại cái thuở thanh b́nh ngắn ngủi, vào những năm 56, 57, 58 ở miền Trung với nhiều luyến tiếc.

Cái thuở thanh b́nh xa xôi ấy, được sống trong môi trường hiền ḥa chân thật, ấm no thịnh trị, được nuôi dưỡng trong t́nh thương của cha mẹ anh em, của bà con cḥm xóm, của lũy tre làng, của gịng sông xanh hiền ḥa trong mát.

Với một môi trường như vậy, lẽ dĩ nhiên con người cũng ảnh hưởng theo mà rất dễ chạnh ḷng trước bất cứ một hiện tượng bất công nào, cho dù hiện tượng ấy chỉ được diễn đạt trong thi ca.

Thuở ấy tôi hiền và nhát quá

Nép ḿnh bên gác thánh lầu chuông

Để nghe khe khẽ lời em nguyện

.........................................................

Thế nhưng càng về sau, theo tuổi lớn, sống trong chiến tranh loạn lạc của quê nhà, với bom đạn xới cày, với ngút ngàn thù hận, tôi bước vào đời bằng chiếc áo trận của người lính Thủy Quân Lục Chiến, miệt mài nơi tuyến đầu lửa đỏ với quyết tâm bảo vệ quê hương, bảo vệ phần đất tự do c̣n lại. Nhưng than ơi, sau đó...!!! Nhất là với những năm tháng "được" nằm trong trại "học tập cải tạo" sau năm 1975.

Thấm thía và chiêm nghiệm được sự chân thật và dối trá, t́nh đời và ḷng người, hai mặt của một đồng tiền, xa hơn là cái con người của quần chúng và con người của cá nhân trong đó có cái con người cá nhân đối với con người cá nhân hay con người cá nhân đối với con người của tập thể cũng như con người của tham vọng và con người của quyền lực, mà con người của tham vọng và con người của quyền lực, th́ sao mà ghê gớm quá.

Từ cảm nhận trên, tôi thường chủ quan đánh giá hay nh́n bất cứ một đối tượng nào đều thiên về bản chất hơn là hiện tượng. Cũng vậy, cái nh́n đối với nhà thơ Tố Hữu, thần tượng thi ca một thời của tôi, đùng một cái, xụp đổ tơi bời.

Qua cái nh́n thiên về bản chất ấy, bằng những nhân chứng sống, bằng những tài liệu đáng tin cậy được phổ biến, tôi biết đó là một ông quan văn nghệ đầy tham vọng và nham hiểm, nó hoàn toàn trái ngược với một số bài thơ "hiện tượng" đầy ắp t́nh người mà ông đă sáng tác trước khi ông sáng tác bài thơ "Từ Ấy". Cũng "Từ Ấy" cái ác hầu như chiếm tỷ lệ cao ở trong ông, cũng "Từ Ấy" ông sợ bằng con đường vương đạo sẽ không có chỗ cho ông tiến thân hoặc nếu có th́ cũng chỉ có từ rất chậm đến chậm mà thôi, nên chi ông không ngần ngại chọn con đường bá đạo kể cả tạo ra những "hoạn lộ" cho những thi hữu cùng thời với ông để đường tiến thân của ông được suông sẻ mà vươn lên.     

 

Thương dân thương nước thương nhà

Thương con thương cháu thương cha ông ḿnh

Thương chi ông Sit-ta-lin

Để cho Từ Ấy hằn in vết chàm

Bầm Ơi! thấu chăng Bầm

Mặc ai khổ nhục vinh thân là ḿnh

Chiến trường đổ Máu ba quân

Trung ương Hoa nở tưng bừng Bầm ơi

Chân dung của nhà thơ Tố Hữu mà tôi đă cố gói ghém trong tám câu lục bát này không ngoài tham vọng là để cho bất cứ một người yêu thơ nào khi đọc lên là sẽ nắm bắt được ngay ư của tôi.

Đối với những người VN quan tâm đến thi ca, cho dù là thi ca cận đại hay là thi ca tiền chiến mà không biết đến thơ của Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận v.v..  th́ cũng chẳng khác nào những người quan tâm đến nhạc tiền chiến mà không biết đến những nhạc sĩ Đoàn Chuẩn-Từ Linh, Văn Cao, Đỗ Nhuận, Đặng Thế Phong v.v..

Riêng khi nói đến nhà thơ Tố Hữu, hơn năm mươi bốn năm nay những người yêu thơ ở trong nước cũng như ở hải ngoại, không ai là không nhắc đến hai câu lục bát "nổi tiếng" trong bài thơ "Đời Đời Nhớ Ông" mà nhà thơ đă sáng tác vào năm 1953 khi nghe tin Stalin chết.

Thương cha, thương mẹ, thương chồng

Thương ḿnh thương một, thương ông thương mười

Tố Hữu là một nhà thơ có tài, sáng tác rất khoẻ, ông mất đi đă để lại cho đời nhiều bài thơ nổi tiếng, có giá trị văn học, thậm chí có nhiều bài thơ của ông trong thời chiến tranh đă và đang được đưa vào dạy ở học đường XHCN, như bài "Bầm Ơi" sau đây là một điển h́nh:

Ai về thăm mẹ quê ta

Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm

Bầm ơi, có rét không Bầm

Hiu hiu gió núi, lâm thâm mưa phùn

Bầm ra ruộng cấy bầm run

Chân lội dưới bùn tay cấy mạ non

Mạ non Bầm cấy mấy đon

Ruột gan Bầm lại thương con mấy lần

Mưa phùn ước áo tứ thân

Mưa bao nhiêu hạt, thương Bầm bấy nhiêu

Bầm ơi, sớm sớm, chiều chiều

Thương con Bầm chớ lo nhiều Bầm nghe

Con đi trăm suối ngh́n khe

Đâu bằng muôn nỗi tái tê đời Bầm

Con đi chiến đấu mười năm

Đâu bằng khổ nhọc đời Bầm mấy mươi

........................................................

Và c̣n biết bao nhiêu bài thơ hay khác mà trong một xuất thần của ông đă trào ra đầu ngọn bút, khiến người hâm mộ rung động với niềm cảm thông như tâm sự chính ḿnh.

Đó là những vần thơ mang nặng đẻ đau của một bà mẹ đúng nghĩa, đó là những vần thơ được ông vắt ra từ lư lẻ của con tim, bằng những ǵ chân thật nhất. Lẽ dĩ nhiên nó là những đứa con được ông thừa nhận trong niềm kiêu hănh. Như ở mặt trái của đồng tiền, bên cạnh tấm huy chương vang lừng ấy là những vết thẹo của đớn hèn. Tố Hữu cũng có những đứa con hoang, những đứa con vô thừa nhận mà ông lỡ đă làm giấy khai sinh, những đứa con mà trong một lúc bồng bột ông đă cấu thành.

Ông biết lắm chứ, những đứa con này th́ ông muốn khai tử, muốn vứt quách cho rồi. Trong thâm tâm, đối với ông đó là những đứa con mang nhiều bệnh tật, hớm hỉnh và dị đời. Đúng vậy, hai câu lục bát:

Thương cha, thương mẹ, thương chồng

Thương ḿnh thương một, thương ông thương mười

Là một trong những "hoang tử" đó. Tuy không được đưa vào học đường, tuy ít được chính ông nhắc đến, nhưng nó đă dính liền với ông như bóng với h́nh, kể từ lúc "khai sinh" ra nó cho đến bây giờ, dù ông đă mất. Nó như vết xăm, xăm lên người, không thể nào tẩy xoá. Nó tréo cẳng ngỗng, nó trớ trêu làm sao ấy... nó chẳng khác nào như một người VN nói ḿnh là người yêu nước, yêu dân tộc, yêu đồng bào, với gần mấy mươi năm lưu lạc xứ người, bôn ba hải ngoại t́m đường cứu nước... nỗi nhớ nước thương nhà luôn canh cánh bên ḷng, thế mà khi về lại, vừa nh́n thấy ngọn núi quê hương, vừa nh́n thấy ḍng sông đất nước đă vội vàng đặt cho những cái tên của "ông tây bà đầm" tận đẩu tận đâu ấy. Với cách hành xử của một con người như vậy lẽ nào bảo đó là người VN truyền thống, là người VN chân chính được? Theo tôi nếu là một người VN chân chính đúng nghĩa, th́ khi rơi vào trường hợp này sẽ không làm như vậy, c̣n nếu làm như vậy mà bảo là người yêu nước chân chính th́ quả là mỉa mai...!!! Trở lại chuyện dài Tố Hữu:

Số là sau 1975 khi Sài G̣n bị đổi tên thành thành phố HCM, Tố Hữu lúc bấy giờ là quan văn nghệ từ trung ương ngoài Bắc vào Nam có ghé đến nhà Thanh Nghị, một quan Văn Hoá vừa từ trong bưng ra, có một ngôi biệt thự xinh xắn do chiếm được ở góc đường Thống Nhất và Hai Bà Trưng. Ông này cũng như tôi thuở "vụng dại", xem Tố Hữu là thần tượng của ḿnh.

Để làm hài ḷng thần tượng và là xếp lớn, Thanh Nghị liền tụ tập một số những nhà thơ lăo thành tiền chiến tên tuổi, tổ chức một đêm "họp văn nghệ", nói là để đánh giá sơ khởi thi ca cả hai miền như là tiền đề cho sự thống nhất văn học sau này. Nhưng mục đích chính là để "hóa giải", để "thẩm định" lại, cho đúng đắn hai câu thơ của Tố Hữu đă thường xuyên bị "bia miệng" dân gian ví von, xách mé và châm chọc.

Theo như tác giả Vân Xưa trong bài "Thơ Tố Hữu" đăng trên Quê Mẹ số 63/64 có kể rằng:

Thanh Nghị tŕnh bày ư kiến của ḿnh trước và cho rằng ví von, châm biếm v́ ác ư hơn là v́ nghệ thuật đúng đắn. Hai câu lục bát này thật ra không thể chê vào đâu được. Nó vừa khẩu chiếm vừa xuất thần mà khẩu chiếm và xuất thần là những tiêu chuẩn cao nhất, định giá trị thi ca VN. Nó đồng thời thể hiện truyền thống thi ca b́nh dân nước ta, qua hai vần lục bát thật thoát sáo, vừa giữ vẹn hồn tính một ca dao vừa đưa loại thi ca giọng quê lên ngang giọng bác học.

Với vỏn vẹn có 14 chữ, trong đó từ "thương" bẩy lần láy lại và c̣n 7 chữ kia "cha, mẹ, chồng, ḿnh, ông, một & mười" đều là những từ không có mấy thi tính. Thế mà Tố Hữu đă ghép lại và khi ta ngâm lên th́ thấy rơ ràng thần tính từ 14 chữ (đúng ra là 8 từ) ấy cuồn cuộn thoát ra, thâm nhập hồn người thưởng ngoạn, khiến hồn tính con người rung động như tơ đồng trên phím, khi nhạc sĩ vuốt vào giây, thật là hết ư.

Thanh Nghị vốn khéo ăn khéo nói, lại thao thao bất tuyệt nên cử tọa bị lôi cuốn theo mà "đồng thanh tương ứng" nhận cách ông thẩm định hai câu thơ của Tố Hữu là xác đáng. Thế rồi có ai đó yêu cầu các thi sĩ có mặt ở "hiện trường" xác minh thẩm định trên, dựa theo những câu thơ đắc ư của chính ḿnh. Lấy những vần ít bác học mà so, Xuân Diệu đem hai câu ḿnh đắc ư trong bài Buồn Trăng,

Ngẩng đầu ngóng măi chưa xong nhớ

Hoa bưởi thơm rồi, đêm đă khuya

Mà cho rằng, không thể truyền cảm sâu sắc hơn hai câu thơ của Tố Hữu được. Huy Cận th́ đọc hai câu thơ trong bài Áo Trắng mà ḿnh cho là tâm đắc,

Em lùa gió biếc vào trong tóc

Thổi lại pḥng anh cả núi non

Để phải nhận rằng, hai câu thơ của Tố Hữu gây xúc động mạnh hơn, dồn dập hơn trong khu vực t́nh cảm mỗi bên, khi muốn dùng thi ca để tác động tâm hồn yêu thơ. Chế Lan Viên không muốn nhắc đến lũ "Ma Hời" một thời vật vờ than khóc của ḿnh mà đưa hai câu cuối trong bài "Mùa Xuân Chín" của thi tài thiên bẩm Hàn Mặc Tử, được sáng tác lúc c̣n là học sinh trung học ở Quy Nhơn mà ông cho là tuyệt bút,

Chị ấy năm nay c̣n gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang

Để so với hai câu của Tố Hữu, họ Chế cho rằng hai bên đều là thơ hay ở mức độ cao, cách phổ diễn niềm đau trước cuộc t́nh bỗng dứt, một bên v́ dang dở, một bên v́ tử biệt sinh ly. Nhưng phải chịu là hai câu của Tố Hữu gần hồn tính b́nh dân, hai câu của Hàn Mặc Tử không sao sánh kịp.

Các nhà thơ khác không ai dám "cầm đèn chạy trước ô tô",  dây vào qua cách dùng thơ của ḿnh để mổ xẻ và so sánh như các bậc thi bá "lẫy lừng" được. Có thể là v́ biết thân biết phận, v́ tự trọng hoặc sợ họa vào thân không chừng, hay cũng có thể là cả ba. Nhưng nói chung, đa số đều im lặng, mà im lặng có nghĩa là tán đồng những thẩm định đă nêu, theo đánh giá chủ quan trong hoàn cảnh tế nhị lúc bấy giờ.

Hoài Thanh, tác giả "Thi Nhân VN" mà Hà Sĩ Phu sau này có vẽ chân dung của ông như sau:

"Vị nghệ thuật nửa cuộc đời

Nửa đời sau lại vị người ngồi trên"

Nét này vẽ bác Lan Viên

Bác Hữu, bác Cận hay riêng bác Hoài

Chân dung các bác ngời ngời

Chém cha cái nửa phần đời phía sau

Cuộc đời hai nửa v́ đâu

Nửa say quỷ kế nửa đau nhân t́nh

Xuân Sách th́ lâu rồi,  đă nhất quyết là không bỏ qua, chẳng những thế, chân dung của nhà phê b́nh văn học này c̣n được ông chiếu cố hết ḿnh. Cũng nên nhớ rằng hai câu: "Vị nghệ thuật nửa cuộc đời, nửa đời sau lại vị người ngồi trên" là thơ truyền khẩu dân gian theo kiểu Bút Tre. Ông Xuân Sách và ông Hà Sĩ Phu đă ứng dụng vào để làm rơ thêm chân dung của tác giả Thi Nhân VN.

"Vị nghệ thuật nửa cuộc đời

Nửa đời sau lại vị người ngồi trên"

Thi nhân c̣n có chút duyên

Lại ṿ cho nát, lại lèn cho đau

B́nh thơ đến thuở bạc đầu

Vẫn chưa thể tất nỗi đau nhân t́nh

Giật ḿnh, ḿnh lại thương ḿnh

Tàn canh, tỉnh rượu, bóng h́nh cũng tan! 

V́ sao? Tiện đây người viết cũng xin đôi chút dài ḍng về nhà phê b́nh văn học này. Thời tiền chiến, HoàiThanh là nhà phê b́nh văn học có tiếng trước khi gặp "cách mạng", năm 1936 ông cùng một số anh chị em văn học đă khởi xướng cuộc tranh luận trên văn đàn VN "Nghệ Thuật Vị Nghệ Thuật hay Nghệ Thuật Vị Nhân Sinh".

Ông là người đứng đầu phe "nghệ thuật vị nghệ thuật" c̣n phe bên kia "nghệ thuật vị nhân sinh" th́ người đứng đầu là Nguyễn Khoa Văn bí danh Hải Triều, một cán bộ tuyên huấn xứ ủy Trung Kỳ, ông này cũng là cha đẻ của Nguyễn Khoa Điềm làm bộ trưởng Văn hóa Thông tin dưới thời Phan Văn Khải là thủ tướng. Cuộc tranh luận kéo dài nhiều năm, cho măi đến gần tháng 8 năm 1945 thế sự xoay vần, con cờ đă lộ, Hoài Thanh thức thời vội bơ ngay quan điểm cũ của ḿnh mà "nhập vai" ḥa đồng với đường lối văn hóa văn nghệ "đúng đắn" của đảng, đó là nền văn hóa văn nghệ "nghệ thuật vị nhân sinh" dựa trên ba điểm chính: Dân tộc, Khoa học và Đại chúng do ông Trường Chinh khởi xướng. Cũng từ đó Hoài Thanh trở thành "người gác cổng văn học" vừa trung thành vừa mẫn cán của nền văn học hiện thực XHCN.        

Lẽ dĩ nhiên, không chính thức có làm thơ, nên không có thơ, được quyền khỏi so sánh và mổ xẻ. "Hú hồn",  tuy vậy, ai cũng hướng về ông như muốn ông cùng nhập cuộc. Với mái tóc muối nhiều hơn tiêu, có chỗ đậm chỗ nhạt  cái chắc là Ḥai thanh dại ǵ mà dây vào, hơn nữa ăn được cái giải ǵ mà vào "cuộc chơi" chỉ có thua này. Thế   chưa ai kịp lên tiếng mời ông th́ ông đă vội mời Vũ Hoàng Chương thẩm định.

Nhà thơ họ Vũ vốn người không mấy cân quắc, lại ăn nói ôn tồn nhỏ nhẹ, năy giờ ch́m lỉm dưới làn kinh truyện tuôn từ các bậc thi bá đắc thời, không ai nh́n thấy ông.

Hoài Thanh gọi đến Vũ Hoàng chương cốt để né tránh thật nên đề nghị là phải có một nhà thơ của Miền Nam góp ư. Nhưng chắc hẳn ḷng dạ không muốn chờ đợi từ nhà thơ họ   phát ra một "ánh sáng" hay một "tia chớp" đột xuất nào.

Vũ Hoàng Chương biết thế nên cứ từ tạ, nhưng rồi Thanh Nghị "mớm mồi" ép thêm vào mà trong bụng tin rằng con người Vũ Hoàng Chương hiền ḥa, ắt không sợ xảy ra cảnh "Hán Sở tranh hùng" hay "cũng gươm, cũng mác, cũng anh hùng" như ông Hồ đối đáp một ḿnh với đức Trần Hưng Đạo.

Ai đă biết Vũ Hoàng Chương, ắt phải biết cái đanh thép bên trong tấm thân nhỏ bé ọp ẹp của ông. Đôi ba lần từ tạ không được, đành nhảy vào nhập trận "ḥ kéo pháo", nhưng trước khi vào cuộc họ Vũ đă yêu cầu cử tọa thông cảm nếu có chỗ nào thất thố v́ ông sợ rằng những ǵ ông muốn tŕnh bày sẽ làm tổn thương cái "sáng giá" của đêm họp "văn nghệ đặc biệt" này, bởi "tất tần tật" đă thẩm định rồi.

Sau đây là lời của Vũ Hoàng Chương do người có bổn phận điếu đóm đêm hôm ấy thuật lại.

"Thi nhân từ cảm xúc mỗi lúc tác động vào tâm cảnh của ḿnh, để hồn trí phản ứng theo thất t́nh con người mà vận dụng thi tứ phổ diễn nên lời một t́nh tự nào đó, rồi đăi lọc thành thơ. Sự vận dụng càng xuất thần, việc phổ diễn càng khẩu chiếm, thơ càng có giá trị cao.

Cảm xúc trước cái chết của một thần tượng được "đóng khung" tự bao giờ trong tâm cảnh ḿnh, Tố Hữu đă xuất thần vận dụng nỗi u hoài, phổ diễn nên những lời thơ thật khẩu chiếm, rồi dùng những từ thật tầm thường, ít thi tính, đăi lọc nỗi u hoài của ḿnh thành một tiếng nấc rất tự nhiên. Đạt đến một mức độ điêu luyện cao. Lời thẩm định của Thanh Nghị thật xác đáng, tôi chịu.

Nhưng thơ không phải chỉ có thế. xuất thần khẩu chiếm thuộc phạm vi kỹ thuật, dù đă có thi hứng phần nào, và nếu chỉ có thế th́ thơ chỉ có khéo mà thôi, chưa gọi là đạt. Tức chưa phải là hay. Thơ hay vừa phải khéo như thế vừa phải đạt thật sự. Thi hứng nằm trong sự thực của t́nh tự phổ diễn nên lời. T́nh tự mà không thực, lời thơ thành gượng ép. Vấn đề của thơ nói cho đến nơi, là ở đây, có nghĩa là thơ phải thực.

Tố Hữu đặt tiếng khóc của chính ḿnh vào miệng một bà mẹ VN, muốn bà dùng mối u hoài của một nhà thơ để dạy con trẻ VN yêu cụ Stalin thay cho ḿnh. Cũng chẳng sao v́ đó cũng là một kỹ thuật của thi ca, nhưng trước hết phải biết bà mẹ VN đó có cùng tâm cảnh với ḿnh không, có chung một mối cảm xúc hay không?

Tôi biết chắc là không. Bởi trong đoạn trên của hai câu lục bát này trong bài "Đời Đời Nhớ Ông", Tố Hữu đă đặt vào lời bà mẹ hai câu:

Yêu biết mấy nghe con tập nói

Tiếng đầu ḷng con gọi Stalin

Chắc chắn là không có một bà mẹ VN nào, kể cả bà Tố Hữu mà thốt được những lời như vậy một cách chân thành. cái không thực của hai câu này dẫn tới cái không thực hai câu ta đang mổ xẻ.

Một t́nh tự không chân thực, dù được luồn vào những lời thơ xuất thần, khẩu chiếm đến đâu cũng không phải là thơ đẹp, thơ hay mà chỉ là thơ khéo làm, đó chỉ là thơ thợ chứ không phải là thơ tiên. Loại thơ khéo này người thơ thợ nào lành nghề cũng quen làm, chẳng phải công phu lắm. Nhất là nếu có đ̣i hỏi cho một tuyên truyền nào đó. Tố Hữu nếu khóc lấy, có lẽ là khóc thực, khóc một ḿnh. Những bà mẹ VN trong bài đă khóc tiếng khóc tuyên truyền, không mấy truyền cảm.

Rồi ông kết luận, hai câu lục bát của Tố Hữu, theo ư ḿnh, chỉ là những lời thơ khéo, không thể so sánh với những câu thơ của những nhà thơ vừa nêu ở trên, bản chất khác hẳn.

Lời thẩm định trên của Vũ Hoàng Chương đă gây sôi nổi, sôi nổi v́ bất b́nh nhiều hơn là v́ tranh luận. Một vài cử tọa muốn đẩy họ Vũ đến chỗ bí, để hóa giải thẩm định ngược ḍng của ông. Họ đă yêu cầu ông nói về thơ và sự thực mà ông đă đưa ra để chê Tố Hữu và cùng nghĩ rằng Vũ Hoàng Chương khó ḷng mà đưa ra một luận cứ vững vàng được. Nhưng Vũ Hoàng Chương cứ vẫn ôn tồn "giải tŕnh" tiếp:

Thơ vốn là mộng, là tưởng tượng, là tách rời thực tế, nhưng mộng trên những t́nh tự thực. Không chấp nhận loại t́nh tự hư hoang. Có khoa học giả tưởng, không có thơ giả tưởng, nói thơ là nói đến thế giới huyễn tưởng, huyễn tưởng trên sự thực để thăng hoa sự thực, chứ không bất chấp, không chối bỏ sự thực. Nhà thơ không được láo, nhà thơ phải thực nhưng thoát sáo sự thực thành mộng để đưa hồn tính người yêu thơ vươn lên sự thực muôn đời đạt đến chân lư cuộc sống. Thiên chức thi ca là ở chỗ đấy. Tôi xin nhắc: Sự thực muôn đời là cơ sở duy nhất của thi ca. V́ có sự thực cho riêng một người, có sự thực cho riêng một thời, nhưng vẫn có sự thực cho muôn đời. Sự thực bao quát không gian, thời gian, chân lư cuộc sống.

H́nh như những ngày sau "cái đêm hôm ấy" Vũ Hoàng Chương đă bị bắt đi học tập và chết vào ngày 06 tháng 9 năm 1976 khi được tha về không bao lâu, có người nói Vũ Hoàng Chương là người dại, nhưng cũng có người nói Vũ Hoàng chương là người can đảm. Theo tôi, ở vị trí kẻ sĩ, ông là một con người tự do, con người tự do của kẻ sĩ không phải quỳ lụy trước bất cứ một áp lực nào, con người tự do của kẻ sĩ tự nó đă có tính tự trọng cao và là con người can đảm. Như Phùng Quán nói:

Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không bảo yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không bảo ghét thành yêu
 

Những người nói ông dại, không biết phía sau chữ dại ấy có ẩn chứa ǵ không? Nhưng sao thấy nó bất ổn quá chừng, nó chỉ biện minh được một điều duy nhất, đó là tính yếu kém của con người, nói rơ hơn, nó như dấu diếm một cái ǵ vừa bí hiểm vừa hèn hạ. Hơn nữa, nếu ai đó nói cách xử sự của thi sĩ họ Vũ  trong hoàn cảnh như vậy là dại, cũng có thể với hàm ư là, giữ sự im lặng trong hoàn cảnh như vậy là hành động của kẻ trí? nếu vậy th́ sẽ không có bài viết này.  

Thôi th́ cứ huỵch toẹt như Nguyễn Tuân, tuy rằng có cay đắng nhưng mà thành thật: "sở dĩ tôi c̣n sống cho đến ngày hôm nay là v́ tôi c̣n biết sợ" lời nói thành thật này không phải là hành động của một người can đảm hay sao.  

Cũng nhân bài viết này chúng ta thử giải thích v́ sao những ḍng thơ tiền chiến của Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên th́ được giới yêu thơ mến mộ, cho dù chỉ dăm ba câu đi nữa! C̣n những ḍng thơ sau này của cả ba có ai nhắc đến đâu? Họa hoằn lắm cũng chỉ được một số ít người.

 Phải chăng cái thực của muôn đời so với các thực của một thời là vậy? Cái thực một thời của cả ba là cố ép những vần thơ tài hoa của ḿnh lặn hụp trong ḍng đấm đá đấu tranh giai cấp mất cả tính người. Nó gượng gạo và trơ trẽn làm sao ấy. Tiếc thật...

 

Biển khổ mênh mông sóng ngập bờ
Khách trần chèo một mái thuyền chơi
Thuyền ai ngược sóng ai xuôi sóng
Cũng ở trong cùng biển khổ thôi

                                (Vũ Hoàng Chương)