Phạm Tín
Mấy
ngày ngắn ngủi ở Sài g̣n, tôi thường đến ăn tối tại một quán ăn gần khách
sạn tôi ở, đi bộ chừng năm phút, có tên Nhà Hàng Thanh Niên, nằm phía sau
nhà thờ Đức Bà. Một nơi tương đối yên tĩnh, khu vườn lộ thiên nhỏ nhưng với
những khóm trúc dễ thương, và nhất là được nghe lại những bản nhạc t́nh ca
-kể cả t́nh lính- của miền Nam thuở trước.
Sài g̣n dường như không kịp thở vào những
ngày cuối năm. Ngoài đường tấp nập xe cộ và trên vĩa hè cũng kín cả người.
Tất cả đều hối hả ngược xuôi, làm như tất cả không c̣n đủ thời gian để kịp
"đổi đời". Tôi thấy ḿnh lạc lơng trong cái không gian ấy.Tốt nhất là t́m
một nơi vắng vẻ ngồi một ḿnh để suy tư và hồi tưởng về Sài g̣n của một thời
xưa cũ, mà bây giờ mơ hồ như chỉ c̣n trong cổ tích.
-
Chào
chú, cháu đánh giày cho chú nhé.
Tôi giật ḿnh khi nghe một giọng rặt bắc kỳ,
chưa kịp quay lại th́ ba chú bé đă đến trước mặt tôi. Thằng bé nhất và cũng
đứng gần tôi nhất nh́n tôi gật đầu chào :
-
Sao chú ngồi một ḿnh buồn thế? Trông chú hơi lạ. Chắc chú là Việt Kiều mới
về thăm quê ?
Tôi ngạc nhiên, không hiểu tại sao thằng bé
biết ḿnh là "Việt kiều". Bởi tôi ăn mặc rất đơn giản. Có thể nói là đơn
giản nhất so với những thực khách có mặt ở đây. Và mặc dù không ưa cái danh
xưng "Việt kiều"này, nhưng thấy thằng bé lễ phép dễ thương, tôi giả tiếng
bắc đùa :
-Chú
ở nước ngoài về chứ không phải Việt Kiều. Thế ngoài ấy quê cháu ở đâu?
-
Cháu ở tận Nghĩa Lộ - Yên Bái
Tôi nắm tay nó :
-
Thế hóa ra ḿnh là đồng hương đấy. Chú cũng từng ở Nghĩa Lộ một thời gian
lâu lắm.
Thằng bé tṛn xoe đôi mắt :
-
Chú cứ đùa. Trông chú chẳng phải người quê cháu.
Tôi bèn kể một mạch về Nghĩa Lộ cho thằng bé
nghe, từ con sông, con đường cho đến cái dốc Cổng Trời và cái thung lũng
Hang Dơi nằm sâu trong vùng núi rừng cực bắc.
Thằng bé ngạc nhiên thích thú, nhưng đôi mắt
cứ nh́n tôi không chớp. Tôi bật cười, vổ vai thằng bé :
-
Xin lỗi cháu. Chú đùa cho vui. Đúng là chú từng ở Nghĩa Lộ gần năm năm.
Nhưng mà chú bị tù cải tạo ngoài ấy.
Cả ba thằng bé cùng nhao lên :
-
À, đúng rồi, con đường ô tô từ dốc Cổng Trời về huyện, bây giờ người ta vẫn
gọi là Đường Tù Cải Tạo. V́ nghe mấy ông bà cụ
bảo do các chú trong nam ra cải tạo đắp con
đường ô tô ấy.
Ba thằng ở ba nơi khác nhau ngoài Yên Bái. Cả
làng đang đói, nên rủ nhau bỏ quê vào miền nam kiếm sống. Khởi nghiệp là đi
xin, sau đó cũng chạy theo"nền kinh tề thị trường theo định hướng xă hội chủ
nghĩa", ba thằng chung vốn làm ăn, kiểu công ty hợp doanh. Một thằng bán vé
số, một thằng bán báo, c̣n thằng bé nhất đánh giày. Vậy mà cũng sống thoải
mái (dù chỉ trên vĩa hè) lại c̣n dành dụm tiền gởi về cứu trợ gia đ́nh.
Thằng bé nhất đang nói chuyện với tôi quê ở Thôn Thượng Sơn, thuộc huyện
Nghĩa Lộ. Một cái huyện miền núi nghèo xơ xác, có thể là một trong những nơi
nghèo nhất nước, nằm cực bắc tỉnh Hoàng Liên Sơn ngày trước, cách thị xă Yên
Bái khoảng một ngày đường. Và cũng là nơi đă từng nhốt nhiều tù cải tạo từ
miền nam chuyển ra, từ anh binh nh́ TQLC bị bắt trận Hạ Lào, cho đến hơn ba
mươi tướng lănh, mà đa số đă không bỏ rơi đồng đội của ḿnh vào giờ thứ hai
mươi lăm.
Đă hơn ba mươi năm, và bây giờ đang ngồi giữa
thủ đô Sài g̣n xưa, tôi cứ tưởng là ḿnh đă quên rồi cái tên Nghĩa Lộ. Vậy
mà hôm nay tôi có cảm giác như đang đứng giữa núi rừng Hoàng Liên Sơn, nh́n
những thằng bạn tù - và thấy cả chính ḿnh nữa - đang bị hành hạ, đói khổ
khốn cùng.
-
Cháu đánh giày cho chú nhé. Cháu đánh để kỷ niệm, đề đền ơn chú đă từng đắp
con đường ô tô cho quê cháu, chứ không phải
xin tiền xin bạc ǵ chú đâu nhá.
Câu nói hơi dài của thằng bé làm tôi bật
cười, trở về thực tại. Tôi cười bởi nghe thằng bé rất nhà quê này xài hai
tiếng kỷ niệm, và nói năng ra điều nghĩa hiệp.
Mà có thể là nó nghĩa hiệp thiệt. Ngày xưa
khi c̣n trong lính, sau mỗi lần hành quân về phố, tôi cũng từng quen, và đở
đầu cho những em bé đánh giày. Tụi nó nghèo, ít học, nhưng biết yêu thương
đùm bọc lẫn nhau, và chí nghĩa chí t́nh. Sau ngày ở tù về, trong lúc làm lơ
xe, bất ngờ tôi gặp lại hai đứa đang làm bốc vác ở bến xe Tuy Ḥa. Bây giờ
là hai cậu thanh niên khỏe mạnh. Có điều sống dưới chánh quyền mới, "nhân
dân làm chủ tập thể" nhưng hai thằng không có một mảnh dất cắm dùi, ngày làm
ở bến xe, tối ngủ ở chợ. Nghề đánh giày cũng không c̣n. Không phải v́ những
thằng bé đánh giày giàu lên sau cuộc đổi đời, mà v́ chẳng c̣n ai mang giày
nữa để mà đánh. Vậy mà gặp lại tôi, hai đứa nhận ra, mừng rỡ như gặp lại
người thân, vẫn một tiếng "anh Ba", hai tiếng "anh Ba" như hơn mười năm
truớc. Tôi t́m mọi cách từ chối, nhưng hai đứa bảo tôi nhất định phải nhậu
với tụi nó một chầu, mừng cho cuộc trùng phùng này mới trọn nghĩa anh em.
Khi chia tay, c̣n nhét vào túi tôi một mớ tiền nhăn nheo, bảo là gời quà cho
các cháu. Tôi thực sự cảm động trước ḷng thủy chung cùa tụi nó, trong lúc
có bao nhiêu thằng vốn học thức đầy ḿnh, nhưng mới một sớm một chiều đă trở
mặt phản thầy phản bạn chạy theo nịnh bợ những thằng "cách mạng 30", mà mới
hôm qua hôm kia c̣n khinh rẽ là đám lưu manh, xích lô xe kéo!
Anh tiếp thị của nhà hàng mang thức ăn đến và
đuổi ba thằng bé ra khỏi quán. Tôi vui vẻ nói với anh là tôi mời ba cậu bé,
rồi quay sang bảo ba đứa kéo ghế ra ngồi và gọi bất cứ thức ăn nào các cháu
thích. Tất cả tṛn mắt ngạc nhiên rón rén kéo ghế ngồi và mỗi đứa chỉ kêu
một đĩa cơm chiên dương châu.
Điều đặc biệt làm tôi lưu tâm tới thằng bé
nhỏ nhất bọn này, bởi quê nó ở thôn Thượng Sơn. Một làng quê xa nhất của cái
huyện Nghĩa Lộ đèo heo hút gió. Vậy mà có lần tôi đă đến đó và ở lại đó gần
cả một tuần. Môt tuần duy nhất được no, được vui và hạnh phúc trong tám năm
tù tội.
x
X X
Khi mới ra bắc, tôi được "biên chế" về trại 3
Hang Dơi. Sau ba năm đuợc chuyển vể trại 6 Nghĩa Lộ, nằm cách trại 5 của mấy
ông tướng mấy cái ao nuôi cá trám cỏ.
Sau một trận kiết lỵ, tôi chỉ c̣n da bọc lấy
xương, đứng không vững th́ c̣n sức ở đâu để mà biến "sỏi đá thành cơm", nên
được điều từ đội trồng trà sang đội "tăng gia", tức là trồng rau, mà nhiều
nhất là rau muống. Vào mùa đông, vùng Ḥang Liên Sơn khá lạnh, nên các lọai
rau không mọc ra được, đám chúng tôi phần đông chuyển qua trồng sắn, phát
rừng, c̣n lại luân phiên nhau mấy toán, vào vùng núi mua thực phẩm, chủ yếu
là cho "cán bộ trại", chứ c̣n đám tù bọn tôi th́ đă có "sắn" (khoai ḿ) để
"khắc phục".
Toán bốn thằng chúng tôi, do một chàng vệ
binh dẫn đi, kéo theo hai cái xe cải tiến (lọai xe đóng bằng gỗ giống như
chiếc xe ḅ nhỏ) vào Thượng Sơn, nằm cách trại khoảng 60 cây số. Trong thời
gian tù tội, những ngày được đi xa như thế này thật là hiếm hoi, hạnh phúc
ghê gớm lắm. Chẳng khác ǵ người trong nước bây giờ được xuất ngoại. Ít nhất
cũng được tự do hơn, ăn uống khá hơn, và nhất là được sống với dân để nghe
họ nói những điều chân thật. Có một trùng hợp lư thú là trong bốn thằng tù
bọn tôi đều có đủ bắc, trung, nam. Một thằng chính gốc Hà Nội 54, một thằng
xứ Huế, một thằng Nha trang là tôi và một thằng nữa là dân Cần Thơ, nam bộ.
Khởi hành từ sáng sớm, chiều chúng tôi đến
làng. Nếu không đến đây có lẽ chẳng ai ngờ là giữa núi rừng xa xôi hẻo lánh
này lại có một cái làng với khỏang một trăm nóc nhà nằm dọc bên bờ con suối
lớn dưới những tàng cây che kín mặt trời. Vậy mà trông rất sạch sẽ và thơ
mộng. Từ cổng làng, bọn tôi đă nghe tiếng chim hót líu lo ḥa trong tiếng
suối chảy róc rách giữa một vùng núi rừng tĩnh mịch.
Bọn tôi được sắp xếp ở trong một căn nhà mái
lá cọ, có vách bằng nứa, nằm dưới một tàng cây cao, sát bên bờ suối. Chủ nhà
là một bà già trọng tuổi. Điều làm chúng tôi ngạc nhiên là trông bà không
giống những người dân mà chúng tôi thường gặp ở vùng này, từ cách ăn mặc tới
cử chỉ nói năng. Lúc nào bà cũng vui vẻ niềm nở với chúng tôi, trên môi lúc
nào cũng có sẳn nụ cười.
Thằng
bạn tù gốc Hà Nội của bọn tôi quả quyết là bà nói đúng giọng Hà Nội, cái
thời c̣n một Hà Nội thanh lịch. Trên vách, treo một tấm giấy khen với một
cái tên cũng rất Hà Nội, không hợp với khung cảnh núi rừng này : "Bà
Vương
Chu
Khánh Hà
". Cái tên trùng tên một cô ca sĩ miền nam, làm chúng tôi dễ nhớ.
Bà ở với người con trai, vừa làm y tá cho
thôn, vừa làm rẫy, trồng thơm (dứa), trồng nhản. Một phần đất anh dành ra
trồng rau và nếp nương. Anh nói năng hiền lành dễ mến. Đặc biệt rất thương
và chiều mẹ.
Ngày đầu tiên, bà chỉ cười chào bọn tôi,
không dám đến gần "quan hệ". Nhưng hôm sau, bà mua chuộc anh vệ binh và giới
thiệu cô thợ may ở nhà kế bên cho anh ta, nên anh ta đóng đô luôn bên ấy. Bà
cho chúng tôi ăn xôi, ăn thịt rừng, c̣n thêm đủ lọai trái cây bà mua được
trong làng. Ở đây, ăn uống như thế là thuộc hàng "tư bản". Ban ngày chúng
tôi đi khắp nơi mua thực phẩm các lọai, chiều về lại nhà, kéo nhau xuống
suối tắm, rồi đuợc ăn một bửa cơm "thịnh sọan", bọn tôi có cảm giác như đang
ở đâu đó trên thiên đàng.
Đêm nào bà cũng mang đến một ấm trà tươi,
ngồi tâm sự với bọn tôi tới khuya. Đúng như thằng bạn tù gốc Hà Nội nhận
xét, bà dân Hà Nội chính tông. Ngày xưa gia đ́nh bà giàu có. Vợ chồng làm
chủ một hăng dệt lớn nhất nh́ Hà Nội. Sau hiệp định Genève, chia đôi đất
nước, chần chờ tiếc của, chưa kịp xuống tàu há mồm chạy vào nam th́ bị đánh
tư sản. Chồng bà chết trong tù, nhà cửa bị tịch thu, bà bị bắt buộc phải dắt
theo hai đứa con, một trai một gái, đứa nhỏ nhất chỉ mới sáu tuổi, cùng một
số "đối tượng" khác lên vùng núi non này, lúc ấy gọi là Khu Kinh Tế Mới
Thượng Sơn.
-
Ngày ấy, cả khu này chỉ là rừng thiêng nước độc. Chỉ ba tháng sau là con bé
gái chết v́ sốt vàng da, mà không t́m dâu ra một
viên thuốc.
Bà nh́n lên trời mơ màng, kể lại cho bọn tôi
những ngày đầu mới đến, nước mắt chảy dài trên má
Sau đó, v́ bản năng tự tồn, những người "Hà
Nội lưu đày" (chữ của bà), ngồi lại, cùng bàn bạc nắm tay vượt lên số phận.
Trong số những người lên đây, có nhiều thành phần, đa số là tư sản và trí
thức. Với bộ óc và với kinh nghiệm trên thương trường, vậy mà họ đă tận dụng
được để cùng nhau vươn lên trong chồn thâm sơn cùng cốc này. Dù nghèo khổ,
ho vẫn giữ được cái t́nh, cái thanh lịch của người Hà Nội. Điều mà chính
quyền cần họ phải gột rửa.
Ngày tiễn chúng tôi đi, bà năn nĩ và đút lót
anh vệ binh cho chúng tôi được nhận một kí nếp, một ít thịt rừng muối mặn,
nhưng bị chối từ, mặc dù anh ta cũng rất quí bà. Cuối cùng để cho bà vui,
anh vệ binh cho chúng tôi được ăn tại chỗ một bữa no nê, lần này c̣n có cả
rượu nếp, do chính tay bà cất.
Một tháng trước ngày rời Nghĩa Lộ, bọn chúng
tôi ngày đêm phải đắp cho xong một con đường ô tô kéo dài từ Nghĩa Lộ lên
tận dốc Cổng Trời. Chúng tôi thắc mắc không biết để làm ǵ, v́ gần năm năm ở
đây, thỉnh thoảng chỉ thấy vài người đạp xe đạp hoặc thồ ngựa trên con đường
ngoằn ngoèo heo hút này. Đến ngày chuyển trại vào Nghệ Tĩnh, chúng tôi mới
biết con đường này dùng để chuyển quân lên Lạng Sơn ngăn chặn bọn bá quyền
Trung Quốc vừa xua quân tràn qua biên giới đ̣i "dạy cho người anh em một bài
học".
x
x x
Hơn ba mươi năm, con đường "làm lại cuộc đời"
của riêng tôi cũng thăng trầm, quanh co không kém, đă làm tôi tạm quên một
quá khứ buồn thăm, dù tất cả vẫn c̣n nằm sâu chôn chặt tận đáy ḷng. Bất ngờ
hôm nay, thằng bé đánh giày gợi tôi nhớ lại. Có điều trong bao nhiêu đau đớn
chất chồng cũng có đôi điều vô cùng đẹp đẽ, chẳng khác ǵ một đóa hoa nở
trên sỏi đá, một cành lan mọc giữa rừng già, trên một thân cây héo khô cằn
cỗi.
-
Thế cháu ở Thượng Sơn có biết bà Vương Chu Khánh Hà. Bây giờ chắc cũng đă
hơn tám mươi ?
Tự dưng tôi buộc miệng hỏi thằng bé, để rồi
ngẩn người ra khi nghe nó trả lời :
-
Ố, đó là bà nội cháu. Bà mất hơn năm năm rồi!
Ḷng tôi chùng xuống
Thằng bé kể lại những ngày cuối cùng của bà
nội, lúc ấy nó mới tám tuồi. Khi mà ở Hà Nội đầy dẫy quán bar và nhà hàng
sang trọng, dành cho khách nước ngoài và những ông quan lớn, th́ cái thôn
Thượng Sơn này vẫn cứ nghèo xơ xác. Một số đă phải bỏ làng t́m về thành phố
cũ, sống trước mái hiên nhà của chính ḿnh ngày trước. Bà nội nó chỉ về đuợc
một lần, đứng nh́n ngôi nhà của ḿnh bây giờ đang là một khách sạn mấy tầng,
mà chủ nhân là một ông ngồi trong Ủy Ban Cải Tạo Tư Sản ngày xưa, bây giờ đă
là ông lớn, chức hàm cở bộ trưởng. Tài sản duy nhất c̣n lại của gia đ́nh bà
là ngôi mộ hoang của ông chồng, ngày xưa nằm trong một nghĩa trang ở ngọai ô
thành phố, nhưng bây giờ nhà cửa mọc kín chung quanh. Cây cối và cỏ rác như
muốn phủ lấp mộ phần. Bà phải ở lại đó mấy ngày mới dọn dẹp xong. Sau lần
ấy, bà về nhà rồi ngă bệnh. Vợ chồng cậu con trai bán đủ thứ trong nhà, cùng
với hảo tâm của mấy người hàng xóm, nhưng cũng không đủ tiền đưa bà đi bệnh
viện. Trước khi chết bà chỉ ước ao duy nhất một điều là đuợc chôn cất bên
cạnh mộ chồng dưới thủ đô Hà Nội, cũng là vùng đất của ḍng họ qua bao nhiêu
đời. Vậy mà cái điều ước ao trối trăn duy nhất đó của bà, cũng không ai thực
hiện được, bởi cái nghĩa trang đó bây giờ nằm trong qui họach thành phố, tấc
đất tấc vàng, không dễ ǵ mua được.
Nghe thằng bé kể, nh́n nhà thờ Đức Bà trước
mặt và nhớ tới bà, tôi lại thầm nghĩ là Thượng Đế đă không có mặt trên đất
nước tôi . Thực ra điều này tôi cũng đă từng nói với mấy thằng bạn tù, sau
tháng 4/75. Bởi nếu có Thượng Đế, sao ngài lại bắt dân chúng miền Nam, những
người hữu thần, đă bao nhiêu đời hằng tin và thờ phụng ngài, lại phải vác
cây thánh giá nặng nề, để tan tác điêu linh như thế. Ḷng tôi thấy xốn xang
và tôi nghiệp cho bà. Tôi thầm trách ḿnh cũng chỉ là kẻ vong ơn, đă quên
mất ḷng tốt của bà trong những ngày ḿnh vô cùng khốn khó. Mà lẽ đời là
thế. Khi đă sang sông c̣n có mấy ai nghĩ tới con đ̣.
Thằng bé lại nhắc tôi về chuyện đánh giày,
đền ơn đáp nghĩa. Tôi đưa chân ra, cả đám cười ồ, tôi đang mang dép. Thằng
bé lấy một tập báo đủ lọai trên tay thằng bạn, để trước mặt tôi :
- Vậy th́ chúng cháu biếu chú mấy tờ báo, về
khách sạn chú đọc cho vui. Toàn chuyện mấy ông lớn tham nhũng ăn chơi tiền
tỉ
đấy!
Tôi cám ơn và hỏi mua một xấp vé số. Trả tiền
xong tôi chia đều cho ba đứa, coi như món quà may mắn, rồi hẹn ngày mai đến
gặp tôi ở khách sạn, tôi sẽ dẫn đi chơi bất cứ nơi nào các cháu thích. Khi
chia tay tôi ôm vai thằng bé đánh giày :
-
Ngày mai cháu nhớ đến nhá. Chú rất cần gặp cháu.
Suốt ngày hôm sau, sau khi dắt ba thằng bé
vào chợ Bến Thành mua sắm một số áo quần, cho các cháu một ít tiền, tôi thuê
xe chở cả đám đi Vũng Tàu. Cả ba đứa đều mong ước được đến đây một lần cho
biết thành phố biển nổi tiếng này, và cũng muốn xem "t́nh h́nh" để chuyển
xuống đây kiếm sống, bởi nghe nói ở đây có nhiều khách ngọai quốc đến du
lịch, hơn nữa ở Sài g̣n càng lúc càng khó khăn, v́ số trẻ em ( và cả nguời
lớn ) từ ngoài bắc vào kiếm ăn ngày càng đông. Trong lúc ngồi trên băi sau,
tôi tâm t́nh thật nhiều với thằng bé đánh giày, kể cho nó nghe chuyện ngày
xưa bọn tôi có lần đến ở nhà bà nội nó một tuần và được bà thương yêu giúp
đỡ. Nó ngồi bên tôi nghe rơm rớm nước mắt, rồi dùng ngón tay viết tên của bà
nội trên cát.
Trên đường về lại Sàig̣n, tôi ghé lại Nghĩa
Trang Quân Đội cũ, nằm bên xa lộ Biên Ḥa. Khó khăn lắm, phải hỏi thăm nhiều
người, anh tài xế taxi mới t́m đựợc lối vào.
Bức tượng Tiếc Thương đă từng tạo huyền thọai
một thời, không c̣n nữa, nhưng Nghĩa Dũng Đài c̣n đứng sừng sững giữa những
ngôi mồ hoang phế, im ĺm. Tôi nghe trong gió như có tiếng oan hồn tử sĩ.
T́m đến ba ngôi mộ của ba thằng bạn lính cùng đơn vị cũ, mà chính tôi là
người thân quen duy nhất chào tiễn biệt tai dây vào những giờ phút thứ hai
mươi lăm của cuộc chiến, cùng với những người lính chung sự vẫn âm thầm tận
tụy như từng bao nhiêu năm mai táng những đồng đội chưa bao giờ gặp mặt. Ba
thằng bé phụ tôi h́ hục dựng lại mấy tấm bia găy đổ. Tôi ngồi trước những
nấm mộ sụt sùi. Ba thằng bé chưa từng biết những ǵ đớn đau và bất công của
cuộc chiến bắc-nam, cũng ngậm ngùi cảm động, trịnh trọng hứa với tôi sẽ
thường xuyên rủ nhau đến đây để hương khói và chăm sóc các mộ phần.
-
Bạn đồng đội của chú chắc chắn là những người tốt.
Ba đứa bé nói với tôi trên đường ra xe về lại
Sài g̣n, trong lúc tôi c̣n đang miên man về cách hành xử tàn tệ từ những con
người không có trái tim, không c̣n biết thế nào là "nghĩa tử nghĩa tận"
Về khách sạn, ba cháu xin được ở lại với tôi
đêm nay, để khuya đưa tôi ra phi trường. Không ngờ những đứa bé từ một vùng
núi non Việt bắc xa xôi lại chí t́nh với một người miền nam, và bây giờ chỉ
c̣n là.. " khúc ruột ngàn dặm", như tôi
Tôi lấy thêm một pḥng, cho hai đứa kia, c̣n
thằng bé đánh giày nhỏ nhất, ở cùng pḥng với tôi. Trước khi đi ngủ, tôi cho
thằng bé một ngàn đô la, bảo nó ngày mai mua vé xe lửa về lại Nghĩa Lộ, đưa
cho ba má nó. Tôi viết một mảnh giấy kèm theo, bảo với ba nó tôi là một
trong bốn người tủ cải tạo lúc xưa, và dùng số tiền này t́m mọi cách đưa bà
cụ về Hà Nội nằm bên ông cụ như lời bà trăn trối lúc lâm chung. Tôi có cho
địa chỉ để anh ta liên lạc. Tôi c̣n căn dặn thằng bé phải hết sức cẩn thận,
v́ các chuyến xe Thống Nhất bắc-nam sẽ rất đông người vào những ngày giáp
tết. Nó tṛn mắt nh́n tôi ngạc nhiên, rồi nắm chặt bàn tay tôi, nói ngày
mai, sẽ may thêm một cái túi bên trong chiếc áo để khâu tiền vào trong đó.
x
x x
" Kính thưa Anh,
Vợ chồng em và chắc chắn là vong linh của mẹ
em nữa, xin muôn vàn cảm tạ ơn Anh.
Không ngờ chỉ có mấy ngày ngắn ngủi rất xa
xưa, mà măi đến nay Anh vẫn c̣n nhớ đến mẹ con em. Riêng em th́ gần như đă
quên chuyện ấy nếu không có anh nhắc lại hôm nay.
Giờ em mới nhớ lại, sau khi các Anh rời khỏi
nhà em, mẹ em khóc mất mấy hôm. Bà bảo phần th́ tội nghiệp các anh, phần th́
nghĩ tới số phận oan khiên của gia đ́nh em vào những ngày đảng vừa lên nắm
chánh quyền. Bà bảo các anh và gia đ́nh chúng em cũng cùng gánh chung số
phận.
Chúng em cũng xin báo tin để anh mửng, là với
số tiền anh cho, chúng em đă đưa được mộ phần của bố em ra một nghĩa địa
khác, trước khi chính quyền cho san bằng khu nghĩa địa cũ để xây đô thị. Khu
nghĩa địa mới dù nằm khá xa thành phố nhưng sạch sẽ và yên tĩnh. Vợ chồng em
cũng căi táng phần mộ của mẹ em và đứa em gái ở Nghĩa Lộ, đưa về chôn bên
cạnh bố em. Gọi là nghĩa địa, nhưng phải mua với giá rất cao. Nếu không có
tiền của Anh cho, biết đến lúc nào chúng em mới thực hiện được lời ước ao
trăn trối của mẹ em.
Nghe đất nước đă đổi mới từ lâu, nhưng có lẽ
chỉ đổi mới ở dưới những thành phố lớn, chứ cái làng Thượng Sơn của chúng em
th́ ngày thêm khốn khó. Rồi nay mai vợ chồng em cũng phải bỏ Thượng Sơn mà
về Hà Nội, hoặc chạy thẳng vào Sài g̣n. Có làm ô xin hay phải sống ngoài
đường chắc cũng c̣n khá hơn.
Phân vân măi, cuối cùng chúng em cũng phải
báo đến anh một tin buồn. Thằng bé Khiêm con em cũng không c̣n. Trên chuyến
tàu thống nhất ngày ba mươi tết hôm ấy, nó bị cướp. Không hiểu có phải bọn
cướp biết đuợc cháu giữ số tiền lớn của anh cho, nên đánh để cướp. Nhưng dù
bị máu me thương tích đầy người cháu vẫn hai tay ôm chặt lấy túi tiền khâu
kỷ trong mấy lớp áo trước ngực. Bọn cướp tháo chạy trước khi có công an
đường sắt tới.
Về nhà cháu tỉnh táo được một vài hôm, ăn
tết với chúng em, kể lại chuyện bất ngờ gặp Anh, được Anh yêu thương và gởi
cho chúng em một số tiền quá lớn,. Chúng em cứ tưởng ḿnh nằm mơ. Nhưng chỉ
một tuần sau cháu bị sốt nặng rồi hôn mê. Đem vào bệnh viện huyện, bác sĩ
bảo cháu bị chấn thương sọ năo. Cháu qua đời vài ngày sau đó.
Bây giờ cháu cũng đang nằm bên cạnh ông bà
nội, và cô út của nó, chắc cháu nó cũng được ấm ḷng nơi chín suối. Chúng em
tin là cháu sẽ măi măi theo phù hộ cho Anh trong những ngày Anh xa quê lưu
lạc xứ người.
Chúng em xin gởi đến Anh trọn ḷng kính mến
và lúc nào cũng cầu nguyện mọi điều tốt đẹp cho Anh cùng gia đ́nh.
Kính thư
Bố mẹ cháu Khiêm
Trần Trọng An
Bức thư tôi nhận được đúng một tháng sau ngày
tết nguyên đán. Suốt cả đêm trằn trọc, tôi không biết có đúng là ḿnh đă trả
ơn Bà, hay là lại mang thêm tai họa đến cho gia đ́nh Bà. Th́ ra trong cái xă
hội đang có nhiều ông lớn và đại gia giàu có, th́ cái sinh mạng của những
người nghèo khổ khốn cùng cũng vẫn chỉ là cỏ rác. Dường như tôi có nghe ai
đó nói "cuối niềm vui nào cũng có xót xa, sau cuộc trùng phùng nào cũng có
mầm mống của ly tan".
Phạm Tín