NHUNG DONG KY UC TU

của Cuu Đại Tá NGUYỄN HUY HÙNG 

cua Dai Ta Nguyen Huu Hung nguyen thuoc TONG CUC CHIEN TRANH CHINH TRI-QUAN LUC VIET NAM CONG HOA:

 Lao  tu kho sai, biet xu tai Mien BacXa Hoi Chu Nghia: 13 nam dai, chiu nhieu nhuc nhan, ret  buot , doi kho trien mien ma van hien ngang, giu vung lap truong cua MOT QUAN NHAN QUAN LUC VIET NAM CONG HOA.

 Nien Truong Nguyen Huy Hung luon luon neu cao tinh than cua MOT TU BINH BAT KHUAT va khong so bao luc chuyen chinh vo san cua bon tan ac vo nhan(can bo cs) trong khap cac Trai tu ma Ong da di qua.

Chung toi cung da tung bi luu day chung mot so Trai tu voi Nien Truong Nguyen Huy Hung, co luc cung Doi cung Lang da song va chung kien noi Nien Truong co mot tam long thiet tha voi NON SONG, TO QUOC VIET NAM TU DO, NHAT LA TINH HUYNH DE THAN THUONG DOI VOI CHIEN HUU DONG TU.

Vi vay, nhan NGAY 30.4 DEN, 32 nam su, Bach Le tran trong gioi thieu den Quy Nien Truong va Quy Chien Huu, Than Huu doc lai: NHUNG DONG KY UC TU cua Nien Truong Nguyen Huy Hung de chia se nhung tang thuong bien doi cua gan 300.000 QUAN-DAN-CAN –CHINH VNCH sau khi thi hanh lenh dau hang, buong sung de cho bon cuop nuoc csVN  bat luu day khap cac mien rung nui, tham sau cun coc, cac mien bien gioi Viet-Trung-Lao, Bac  va vung rung U Minh, Dong Thap, Ca mau Nam Viet Nam,  voi khi hau khac nghiet va cai chet den voi tu, nhu chi manh truoc con bao lua…Than oi, dau don va buon lam thay!..

Tran trong gioi thieu.

Bach Le, Tran Ba Ly.

http://www.geocities.com/cuusvsqthuduc/TD.html

---

Nguoi Tu bi giam ky luat cong hai chan 24/24, an muc an”C” thap nhat trong vong 2 tuan le se khong dung va di duoc, neu keo dai 3 hoac sau thang co the tu vong, duoc tha ra con song, neu vc se cho lao dong nhe thi 6 hoac mot nam moi co the phuc hoi.

NHỮNG D̉NG KƯ ỨC TÙ

 

 

          Tập thơ của KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG, ghi lại những cảm xúc trong suốt thời gian bị cầm tù tại Việt Nam sau ngày Quốc hận 30-4-1975. Thời gian khổ hạnh này được chia ra : 13 năm lao động khổ sai qua 9 Trại tập trung cải tạo của Đảng Cộng sản và Bạo quyền Xă hội Chủ nghiă Việt Nam trên cả 3 Miền đất nước, và 4 năm chờ đợi tại Saigon làm thủ tục để được cùng gia đ́nh đi định cư vĩnh viễn tại Hoa Kỳ theo diện nhân đạo (Humanitarian Operation), để xây dựng lại cuộc đời mới trong xă hội Tư bản hoàn toàn Tự do, Dân chủ, B́nh quyền.

Tập thơ gồm 48 bài, được phân ra thành 6 đoạn với các Tiêu đề riêng, dựa theo thời gian lũy tiến bị giam cầm tại mỗi địa phương khác nhau :

1.- Những giây phút ngỡ ngàng chơi vơi không quên được, gồm 6 bài.

2.- Khúc quanh đau thương, gồm 13 bài.

3.- Thê thảm kiếp tù không án, gồm 9 bài.

4.- Kiếp lưu đầy trên đất Bắc Xă hội Chủ nghiă, gồm 6 bài.

5.- Tia sáng cuối đường hầm, gồm 6 bài.

6.- Nhà tù lớn Cộng hoà Xă hội Chủ nghiă Việt Nam, gồm 8 bài.

 

Những bài thơ này trích từ cuốn hồi kư HỒI ỨC TÙ CẢI TẠO VIỆT NAM đă phát hành vào tháng 5-2004, hiệu chỉnh đôi chút và gom riêng thành tập thơ với tiêu đề NHỮNG D̉NG KƯ ỨC TÙ. Việc làm này hoàn tất vào đúng ngày 4 tháng 7 năm 2005, Lễ Độc Lập của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ lần thứ 229./.


Tác giả KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG

http://www.geocities.com/cuusvsqthuduc/TD.html

1

 

 

 
1. NHỮNG GIÂY PHÚT NGỠ NGÀNG CHƠI VƠI
KHÔNG QUÊN ĐƯỢC.



30-4-1975
NGÀY QUỐC HẬN
CỦA DÂN TỘC VIỆT
NAM.

Big MINH (*) hàng, thế là xong!
Nghe lời tuyên cáo mà ḷng nát tan.
Thất thần, cổ nghẹn, lệ tràn,
Tim rung loạn nhịp, thời gian đọng ch́m.
Bàng hoàng như gẫy cánh chim,
Không gian đảo lộn, khó t́m lối ra.
Thôi rồi! mất nước mất nhà,
Bao năm chiến đấu bôn ba ích ǵ?
Sóng lùa Dân chủ trôi đi,
Tự do biến mất c̣n chi cuộc đời!
Xuôi tay phó mặc ông Trời,
Chờ coi đảng cướp thị oai thế nào?
Xem bầy phản bội ra sao,
Vinh thân hay cũng phải vào ngục đen?
Cộng hoà Chiến sĩ chẳng hèn,
Lột quân trang phục vứt bên lề đường.
Tản đi khắp nẻo Quê hương,
Không hàng Việt Cộng,
như phường Big MINH…

Quận Phú Nhuận, thành phố
Saigon.

(*) Dương văn Minh. Hoa Kỳ dùng biệt danh “Big Minh”, để phân biệt với các Tướng khác trong Quân lực Việt
Nam Cộng hoà cũng có tên là MINH.


15-6-1975 (*)
CHƠI VƠI
GIỮA D̉NG SÓNG ĐỎ.


Bánh tro Đoan Ngọ vàng trong,
Anh hùng thất thế đành ḷng nộp thân.
Vợ con lo lắng tiễn chân,
Hoang mang, ngơ ngác, tần ngần lệ rơi.
Tháng Tư đại nạn đổi đời,
V́ Dân nay phải vào nơi đọa đầy.
Tự do giă biệt từ đây,
“Chim lồng cá chậu” biết ngày nào ra?
Chơi vơi đâu chỉ riêng Ta,
Toàn Dân Nam Việt lệ nhoà đau thương.
Kiêu binh Cộng sản đầy đường,
Bợ thời phản bội khối phường tiểu nhân.
Từng quen luồn cúi kiếm danh,
Nhiễu nhương lật lọng ôm chân kẻ thù.
Bọn th́ đội lốt nhà tu,
Xúi người khác Đạo gây thù hại nhau.
Con buôn chính trị hoạt đầu,
Vội mang băng đỏ “dép râu” làm hề.
Lăng xăng mừng Cách mạng về,
Tung tăng bợ đỡ làm thuê không tiền.
Du côn, đứng bến, nằm hiên,
Bỗng dưng đời đổi nắm quyền trị dân.
Cướp đường, trộm chợ, phu khuân,
Hoá thành Cách mạng áo quần bảnh bao.
Ủy ban Quân quản ra vào,
Tiền hô hậu ủng, Cờ sao đỏ đường.
Đổi đời rối loạn Âm Dương,
Đảng đoàn, chồn cú,
ma vương hoành hành.
Khắp nơi xú uế hôi tanh,
C̣n đâu không khí trong lành Tự do.
Sài-g̣n đổi ra Thành Hồ,
Mặc t́nh bè lũ Tam Vô hại đời !!!



Saigon, 5 tháng 5 Âm lịch Ất Măo.
(*)15-6-1975 là ngày cuối cùng, Cộng sản buộc các Sĩ quan và Công chức Việt Nam Cộng hoà phải tŕnh diện để đi học tập cải tạo tư tưởng thời gian một tháng, trước khi được xét định cho trở thành người công dân của nước Cộng hoà Xă hội Chủ nghiă Việt Nam.




16-6-1975
BẮT ĐẦU CUỘC ĐỔI ĐỜI.

Nửa đêm lệnh gọi “hành quân”,
Gập chăn, cuốn chiếu,
xuống sân xếp hàng.
Nối đuôi nhau đứng hoang mang,
Va-li lếch thếch, túi quàng bên vai.
Nghe tên gọi bước ra ngoài,
Tập trung thành Đội ba mươi mốt người.
Dồn lên từng chiếc xe hơi,
Bít bùng, ngột ngạt, đứng ngồi chen nhau.
Lao nhao bàn tán x́ xào,
Đoán xem chuyển đến nơi nào, gần xa?
Người sành tin tức ba hoa,
Chắc là Phú Quốc, phải ra bến tầu.
Xe lăn mỗi lúc một mau,
Ḅ lên, lao xuống, biết đâu mà ṃ!
Lắc qua, lắc lại ṿng vo,
Lanh quanh tới sáng tờ mờ mới ngưng.
Sương mai phủ kín cây rừng,
Rào gai xiêu vẹo, tầng tầng b́m leo.
Xuống xe, gối mỏi lăn quèo.
Lồm ngồm ḅ dậy, tiếp nhau xuống hàng.
Quơ quờ t́m kiếm hành trang,
Leo qua rào kẽm vào Làng Tập Trung…


Sáng sớm tinh mơ ngày 16-6-1975.Trại Long Giao, tỉnh Long Khánh




 

MỘT THÁNG, HỌC LÀM NGƯỜI
XĂ HỘI CHỦ NGHIĂ.

Long Giao vốn trại của Ta,
Ngày nay đời đổi hoá ra Làng Tù.
Lâu ngày chẳng được trùng tu,
Tan hoang, nên phải lu bu sửa hoài.
Tay không bứt cỏ, bẻ gai,
Nhổ tranh, bới đất trồng khoai, trồng ḿ.
Đá xanh vun đắp lối đi,
Sửa nhà, dựng vách, pḥng khi đổi mùa.
Tiết Trời đang chuyển sang mưa,
Nắng ngày gay gắt,
sương khuya lạnh lùng.
Tập trung đủ mặt anh hùng,
Tùy theo cấp bậc nhốt từng khu riêng.
Nấu ăn, chia Đội luân phiên,
Mỗi khu hỏa vụ lo trên trăm người.
Nước dùng, kéo đáy giếng khơi,
Hàng ngày lănh gạo, đồ tươi về làm.
Thực đơn nghe báo mà ham,
Nay gà, mai lợn, mốt tôm, kia ḅ.
Lănh về ai nấy ngẩn ngơ,
Con gà hai kí, phát cho trăm người.
Vứt lông, bầm nát xong xuôi,
Nêm tiêu, xả, muối, bỏ nồi nước ninh.
Lúc chia vận trí thông minh,
Khoắng đều cái nước như x́nh múc ra.
Người hai muổng xả kho gà,
Trộn cơm Đại Mễ(1) ăn mà độ thân.
Đổi đời phải luyện tập dần,
Miếng ăn ít ỏi, chia phân đồng đều,
Nếu không kẻ ít người nhiều,
Lời qua tiếng lại, sinh điều chẳng hay.
Ngày ngày khắc vạch lên cây,
Đếm dư trăm ngấn(2) mà Thầy chửa ra.
Hẳn là phải đợi đến già,
Chờ hồi xương mục, chẳng tha cũng về !!!


Trại Long Giao, tỉnh Long Khánh.
(1)Gạo của Trung Cộng tiếp tế cho VC.
(2)Trăm ngấn là 100 ngày = hơn 3 tháng.



THÁNG 9-1975,
MÙA NHỒI SỌ BẮT ĐẦU.

Bỗng dưng trại mở Căng Tin,
Tha hồ Tù viếng, miễn tiền đủ chi.
Mặt hàng chẳng thiếu thức ǵ,
Trứng tươi, ḿ, sữa, bánh quy,
Đồ ăn đóng hộp, hệt y chợ trời.
Kẻ giầu mặc sức mua xơi,
Bỏ cơm trại phát cho người nghèo ăn.
Mở màn khích lệ tinh thần,
Cho Tù “hồ hởi” dấn thân học hành.

Chờ đoàn Cán Ngố nổi danh,
Từ Hà Nội đến, tung hoành múa môi.
Giữa mùa gió băo tơi bời,
Bọn người thắng trận đến nơi khoe tài.
Đêm buồn, tầm tă mưa rơi,
Đoàn Tù “khắc phục” đội Trời xem phim.
Bước đầu thử thách con tim,
Xem tinh thần “Ngụy”(1) nổi ch́m ra sao?
Có người dại miệng x́ xào,
Bị kêu gặp ‘Cán thuốc lào” thẩm tra.
Hung tin sốt dẻo tung ra,
Phạt “cùm”, dằn mặt “phe Ta” khỏi lờn.
Để mà suy nghĩ thiệt hơn,
“Kiến trong miệng chén”
c̣n chuồn đi đâu?
Loạt bài nhồi sọ bắt đầu,
Phê b́nh Đế quốc sang giầu dă man.
Thế, Thời, Tư bản đang tàn,
Sóng Thần Cách Mạng
dâng tràn khắp nơi.
Khôn ngoan nên biết thức tḥi,
Cúi đầu theo Đảng sống đời Cộng nô.
Noi gương các cụ Mao, Hồ,
Làm con cái nước Liên Sô anh hùng.
Dại, ngu, giữ giống Tiên Rồng,
Làm sao hội nhập Đại Đồng Tam Vô?

Rầng rầng tay vỗ hoan hô,
“Đỉnh cao trí tuệ” tha hồ ba hoa.
Công, Danh, Cộng Đảng chói loà,
Nhân dân đổ máu, Đảng ta kiêu hùng.
Đảng ta nhân đạo khoan hồng,
“Ngụy” tha tắm máu, tập trung học nghề.
Bao giờ “tiến bộ” th́ về,
Tiếp tay xây dựng lại quê hương nhà.
Giờ đây chinh chiến đă qua,
Bắc
Nam đoàn tụ một nhà thương nhau.
Thời gian học tập chẳng lâu,
Yên tâm cố gắng cho mau đạt thành.
Gia đ́nh vô sự yên lành,
Các con vẫn được học hành như xưa.
Vợ theo lao động “thi đua”,
Tham gia sản xuất, đợi cha, đợi chồng.
Bọn hèn xuất hiện lập công,
Mở lời phụ họa tố Ông, tố Bà.
Nghẹn ngào oán hận Mẹ Cha,
Lệ tuôn tức tưởi xin tha tội ḿnh.
Đáng thương cho lũ bạc t́nh,
Bạn bè xa lánh, miệt khinh măn đời.
Lúc nguy mới rơ ḷng người,

Vàng thau lẫn lộn, lửa thui hiện h́nh.

Rớt vào tay bọn súc sinh,
Dần dà mới thấy cực h́nh bủa vây.
Tinh thần căng thẳng đêm ngày.
Đọa đầy kiệt sức bỏ thây rừng già.
Rồi đây sẽ sáng mắt ra,
Đừng nghe Vẹm (2) nói ngọt mà vội tin…



Trại Long Giao, tỉnh Long Khánh.
(1) Cộng sản Bắc Việt gọi Quân nhân, Công chức Hành chánh Việt
Nam Cộng hoà là Ngụy Quân, Ngụy Quyền.
(2) Tiếng lóng do dân chúng Bắc Việt dùng từ năm 1946 để chỉ Việt Minh, sau khi Việt Minh phản bội tiêu diệt hết các Đảng Chính trị Quốc gia trong Chính phủ Liên Hiệp không chịu theo Cộng sản.




KẾT QUẢ THÂU HOẠCH
SAU ĐỢT HỌC TẬP.

Tưởng rằng Cộng sản là vô địch,
Hăng hái Bác Hồ nhắm mắt theo.
Nửa Thế kỷ qua nước vẫn nghèo,
Nhân dân nguyền rủa, nhục, sầu, chết.
Chuyên quyền độc đảng, Nga hơn Mỹ,
Dân chủ b́nh quyền, Mỹ thắng Nga.
Nam Việt đắn đo, lập Cộng hoà,
Nga, Tầu, lo lắng hè nhau diệt.
Cách mạng theo Nga dân đói rách,
Rập khuôn Âu Mỹ nước phồn vinh.
Tham lam muốn cướp, Đảng hành binh,
Xâm lược miền
Nam, mặc sức vét.
Chủ nghiă Tam Vô phá Quốc gia,
Tự do Dân chủ nước hưng thịnh.
Độc tài Đảng trị dân thù oán,
Thiển cận làm sao thấy được xa ???



Tháng 9-1975, Long Giao, Long Khánh.
KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG
.

 

2 

Khúc Quanh Đau Thương

 

HOANG MANG !
Hành trang chuẩn bị xong rồi,
Tập trung từng Đội đứng ngồi đợi xe.
Xôn xao chuyện gẫu bên hè,
Nôn nao chẳng biết chuyển về nơi đâu?
Cao nguyên? Phú Quốc? Cà Mâu?
Côn Sơn? Quảng Đức?
Rừng sâu? Đồng bằng?
Có nguồn tin nhảm đồn xằng,
Tập trung về trại Sóng Thần, Lễ tha!
Ngây thơ quá đỗi thật thà,
Đấu tranh giai cấp, “Ngụy” là mục tiêu.
Phải cần trừ khử thật nhiều,
Hành cho tiều tụy đủ điều khổ đau.
Đầy cho nếm mọi thảm sầu,
Sức cùng lực tận, chớ đâu thả về.
Bao giờ tàn tạ ê chề,
Nửa người nửa ngợm u mê, mới ḥng.
Đảng ta nhân đạo khoan hồng,
Cho không phải bỏ xác trong rừng già.
Khi nào c̣n xương bọc da,
Đảng cho đoàn tụ để mà chôn nhau.
Rầm rầm xe tải ập vào,
Mặt trời lẳng lặng biến sau cây rừng.
Lên xe nửa sợ nửa mừng,
Gian truân bám hại tới chừng nào đây?
Xe lăn bánh, gió hây hây,
Người đi kẻ ở vẫy tay tiễn chào.
Lâu rồi mới thấy đồng bào,
Dọc hai bên lộ dẫn vào Hố Nai.
Nhà Thờ cửa đóng then cài,
Chẳng như thuở trước,
trong ngoài đầy Chiên(*).
Xót xa thương nhớ vợ hiền,
Làm sao xoay sở có tiền nuôi con?
C̣n Trời, c̣n nước, c̣n non,
C̣n bầy Quỷ Đỏ, Em c̣n gian truân.
Cầu xin Trời, Phật, Linh Thần,
Độ cho Em được yên thân hàng ngày.
Vững tâm vượt hạn hôm nay,
Trời thương chẳng hại,
c̣n ngày gặp nhau.
Thất thời đành chịu lao đao,
Tới đâu hay đó, hơi nào mà lo.
Xe ngưng, trời đă tối ṃ.
Đèn pha rọi sáng, điểm cho tù vào.
Ngoằn ngoèo theo giậu kẽm cao,
Nối đuôi hàng một, bước vào khu giam.
Đặc nhà tiền chế Mỹ làm,
Mái tôn, khung sắt, nền nằm xi măng.
Xưa, dùng nhốt Cộng xâm lăng,
Nay, bầy Qủy chiếm lại quăng ta vào.
Thua, đành nhịn nhục nuốt đau,
Thế thời dâu biển biết đâu là cùng?
Nội quy luật lệ tập trung,
Chín giờ đèn tắt, hạ mùng ngủ yên.
Định tâm vận khí luyện Thiền,
Quên đi bao nỗi truân chiên trong ngày.
Quên đi, những cảnh đắng cay,
Giữ hồn trong sáng đợi ngày Tự do.
Đấu tranh dựng lại cơ đồ,
Cho toàn dân Việt ấm no, phú cường.
Nơi nơi bàng bạc t́nh thương,
Nhân quyền, Bác ái, bốn phương hài hoà.
Ví rằng Trời chẳng thương cho,
Th́ đành bỏ xác nơi bờ rừng hoang.
Thề không phục bọn bạo tàn,
Cho dù thịt nát xương tan cũng đành.
Chẳng thành công, phải thành danh,

Mệnh Trời định sẵn, ai giành được sao???


Tháng 10-1975,
Trại Suối Máu,
Tam Hiệp, tỉnh Biên Hoà (Đồng Nai).
(*) Các giáo dân thường được các Linh Mục gọi là Con Chiên.


SUỐI MÁU,
XUÂN LƯU BÚT.
Mất hết, c̣n chi Tết với Xuân,
Nhà tan, tổ vỡ đọa đầy thân.
Nghe tràng pháo nổ, ḷng tan nát,
Ngó cánh Mai rơi, năo bí vần.
Kẻ thắng cuồng vui cười hể hả,
Người thua chua chát hận phân vân.
“Anh hùng mạt lộ” âm thầm chịu,
Tà, Chính, Trời cao sẽ định phần!


Tháng 2-1976, Tết Bính Th́n.

Trại Suối Máu,
Tam Hiệp, tỉnh Biên Hoà (Đồng Nai).



SUỐI MÁU,
QUỶ ĐỎ THỊ OAI.
Mái tôn mưa gơ rào rào,
Luồn chân vách hổng, th́ thào gió ru.
À ơi! thương kiếp sống tù,
Một ngày trong khám, thiên thu ngoài đời.
Bắc, Nam, chung một giống ṇi,
U mê theo quỷ vô loài diệt nhau.
Chung quy chỉ Mẹ Việt đau,
Quê hương ngút lửa, máu đào tràn sông.
Thây dân vô tội đầy đồng,
Tha hồ Việt Cộng dâng công tế Thầy(*).
Non sông gấm vóc từ đây,
Thành nhà tù lớn, vũng lầy khổ đau.
Coong! Coong! Cồng điểm canh thâu,
Đùng đùng đạn nổ, hay đâu truyện ǵ?
Rầng rầng bộ đội bủa đi,
Ào vô xục xạo, súng gh́, đèn soi.
Bàng hoàng lưng vă mồ hôi,
Ngỡ rằng Thần Chết đến nơi cướp hồn.
Lệ Trời, tuôn lúc mau hơn,
Ào ào gió thổi từng cơn lạnh lùng.
B́nh minh rồn rập tin hung :
“Đêm qua có kẻ mánh mung vượt rào,
Thiên la Địa vơng vây bao,
Lưới Công An đặc, thoát sao khỏi tṛng?”
Biết rằng đường lắm gai chông,
Cặp tù : Thịnh, Bé,
quyết không ngại ngùng.
Vượt rào trốn thoát ngục trung,
Tung hoành cho thoả chí hùng thuở nao.
Phục thay gan dạ anh hào,
Coi đời như giấc chiêm bao vắn dài.
Thời gian chửa kịp nguôi ngoai,
Bỗng dưng thấy Cán dẫn hai tù về.
Mây chiều ảm đạm lê thê,
Mạch tim quặn thắt, tái tê cơi ḷng.
Oan khiên, chẳng thoát tử vong,
Qủy đang đợi dịp “thi công” hại người.
Thị oai cho cả trong ngoài,
Thấy quyền sinh sát, gương soi tỏ tường.
Lập toà tuyên xử “khẩn trương”.
Tha hồ ác tặc ma vương đóng tṛ,
Tử h́nh án trữ đầy kho,
Phải đem phân phát sao cho cạn lần.
Nhân danh đại diện nhân dân,
Diệt trừ “giai cấp” đâu cần đắn đo.
Rập khuôn Trung Cộng, Liên Sô,
Không theo chủ nghiă Tam Vô là thù.
Không theo Cách mạng mùa Thu,
Thành phần đối lập khử trừ thẳng tay.
Yêu tinh hiện giữa ban ngày,
Hại người yêu nước, Trời hay chăng Trời?
Rào rào gió giục mưa rơi,
Thấm ḷng đất Việt máu người Việt
Nam!


Tháng 4 năm 1976,
Trại Suối Máu,
Tam Hiệp, tỉnh Biên Hoà.
(*) Liên Sô là quan Thầy của Việt Cộng.


TRẮNG ĐÊM,
TRÊN ĐẤT BẮC
XĂ HỘI CHỦ NGHĨA.
Sàn tre vật vă ẩm ê,
Lắng nghe giun dế tỉ tê nỗi niềm.
Lao sao chuột rúc bên thềm,
Ŕ rầm suối đổ, cú chêm nhịp buồn.
Trăng rừng lạnh lẽo cô đơn,
Sương khuya mờ ảo, gió luồn khe song.
Nhớ con thương vợ năo ḷng,
Chợ đời bạc bẽo long đong một ḿnh.
Thời gian hờ hững vô t́nh,
Không gian khoả lấp
bao h́nh thân thương.
Bắc, Nam, chung cảnh đoạn trường,
Lương dân cùng khốn,
quê hương tan tành.
Tung hoành Cộng đảng gian manh,
Bầy tṛ giai cấp đấu tranh hại đời.
Oán than dâng thấu tận Trời,
Ông Cao Xanh hỡi! Nỡ ngồi làm ngơ?
Họa Hồng Thủy đến bao giờ?
Mới cho dân Việt thấy bờ Tự do ???


Cuối tháng 6-1976,
Phân trại K ḷ gạch, Liên Trại 1,
Việt Cường, Yên Bái, Hoàng Liên Sơn.


LAO ĐỘNG
LÀ VINH QUANG !!!

Khởi đầu “lao động vinh quang”,
Cồng bom (1) giục giă,
xếp hàng giữa sân.
Lệnh kêu từng Đội “xuất quân”,
Vào rừng chặt chổm (2), vác dần về K (3).
Đóng rào, dựng cổng, cất nhà,
Để mà có chốn đi ra đi vào.
Đắp nền Láng ở cho cao,
Kẻo mùa mưa lũ, nước trào vô trong.
Sàn nằm hai dẫy thong dong,
Đầu quay sát vách, khỏi trông thấy ngoài.
Láng(4) ba gian dọc, phân đôi,
Nhốt chung hai đội, trăm người vào ra.
Cấm không tụm bẩy tụm ba,
Truyện tṛ bàn thảo việc nhà, việc chung.
Ngày lo lao động tính công,
Tối ngồi “kiểm thảo” để cùng “sửa sai”.
“Hoạch định phương án” tương lai,
“Thi đua”, “phấn đấu”
hàng ngày tiến lên.
Ốm đau “khắc phục” cho quen,
Đội không được phép
vắng trên một người.
“Khẩu phần”có đội “Anh Nuôi”,
Lo cho cả trại kịp thời, đúng cân.
Dù ai lao động xa gần,
Đi về sớm muộn, có phần dành riêng.
Giống như Hợp Tác Xă viên,
Anh hùng lao động tại miền Bắc ta.
Thảm thương Đại Tá Cộng Hoà,
Đọa đầy thể ấy, thành ma mấy hồi!!!


Tháng 7-1976,
Phân trại K1 (khu nhà ngói),
Liên Trại 1, Việt Cường, Yên Bái,
tỉnh Hoàng Liên Sơn.
(1) Bộ đội canh tù lượm được trái bom Mỹ thả xuống miền Bắc không nổ, đem về gỡ ng̣i và lấy hết thuốc nổ ra, rồi treo chiếc vỏ trống lên cây dùng làm kẻng đánh thông báo các giờ giấc sinh hoạt quy định hàng ngày tại trại giam.
(2) một giống tre hoang mọc trong rừng ở vùng xă Việt Cường, Yên Bái, tỉnh Hoàng Liên Sơn.
(3) Mă hiệu Việt Cộng dùng để gọi Phân trại, thí dụ K1 là Phân trại 1.
(4) Láng, là tiếng riêng do Việt Cộng dùng để chỉ một dẫy nhà giam tù.


THI ĐUA,
MỪNG LỄ ĐỘC LẬP
XĂ HỘI CHỦ NGHIĂ.
Muỗi, vắt, họp bầy đeo khắp thân,
Đầm lầy, khe úng, điả bâu chân.
Tù, đua lao động nâng thành tích,
Cán, thúc ghi công xét định phần.
Đôi mẩu ngựa già xào muối hột,
Vài khoanh măng đắng nấu xương gân.
Đồng bào đâu thấy ḷng nham hiểm,
Thế giới nào hay dạ bất nhân!!!


Lễ Độc lập 2-9-1976,
Phân trại K1, Liên Trại 1,
Việt Cường, Yên Bái, Hoàng Liên Sơn.


ĐỊA VƠNG
XĂ HỘI CHỦ NGHIĂ.
Biết rằng dầy đặc Công An,
Một ḷng đă quyết, nguy nan chẳng sờn.
Cho hùm ăn thịt c̣n hơn,
Sống trong lao nhục, chết ṃn, tủi thân.
Sau đêm tầm tă mưa tuôn,
Tầng tầng rừng chổm,
sương buông mịt mờ.
Cùng nhau thực hiện ước mơ,
Bốn Tù Lâm Sản (*) lủi vô ḷng rừng.
T́m đường trốn thoát khỏi bưng,
Theo sông, vượt biển, tới vùng Tự do.
Cho thiên hạ rơ mưu đồ,
Cộng quân nham hiểm hơn Hồ ly tinh.
Bầy ra đủ thứ cực h́nh,
Đọa đầy Công chức,
Chiến binh Cộng Hoà.
Tiếc rằng, đại nạn chửa qua,
Lạc trong rừng rậm, chẳng ra được ngoài.
Cạn lương, t́m rẫy kiếm khoai,
Cộng nô vây bắt, thẳng tay hạ đ̣n.
Không cho phân giải thiệt hơn,
Hiệp bầy đấm đá, hả cơn hận thù.
Theo lời Cách mạng mùa Thu,
Không theo Cộng sản, là thù của dân.
Dù là máu mủ, quyến thân,
Gốc không Vô sản,
thành phần hiểm nguy.
Phải cần tiêu diệt hết đi,
Chỉ c̣n vô sản, vô ngh́ với nhau.
Tiến lên theo Đảng dẫn đầu,
Hoà cùng các nước chư hầu Liên Sô.
Đại đồng Thế giới Tam Vô,
Trở về nguyên thủy, tha hồ Tự do !!!


Tháng 10-1976.
Phân trại K1, Liên Trại 1.
Việt Cường, Yên Bái, Hoàng Liên Sơn.
(*) Bốn Đại Tá trốn trại là : Vơ Quế (Không quân), Đỗ Trọng Huề (Hành chánh tài chánh), Thành (Trung đoàn trưởng thuộc Sư đoàn 9 Bộ binh) và Thi (Pháo binh),  anh Thành đă bị cán bộ trại cải tạo tra tấn đến chết, nhưng lại phao tin là tự treo cổ lên nóc hầm giam tự tử .

Chú thích them của Bạch Lê .  Trần Trung Thành có Danh hiệu hành quân là Thai Dương Thần Nữ, sau cùng là Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Vỉnh Long .

KHOAN HỒNG NHÂN ĐẠO
XĂ HỘI CHỦ NGHĨA !!!

Cồng bom nhức óc đinh tai,
Chó chu thảm thiết báo trời rạng Đông.
Dậy lo thu xếp chăn mùng,
Sẵn sàng tiếp tục thi công kiếp tù.
Sơn lâm chướng khí mịt mù,
Cỏ cây ướt sũng âm u lạnh lùng.
Năo nề ôi! Cảnh tập trung,
Dầm mưa dăi nắng sức cùng lực tiêu.
Đắng cay, nhịn nhục đủ điều,
Gian lao xốc vác “chỉ tiêu” nặng nề.
Đọa đầy thê thảm ê chề,
Như bầy nô lệ làm thuê khốn cùng.
Đảng là vai chủ nhân ông,
Độc quyền sinh sát lao công tội tù.
Không theo”Bác”(1) “Đảng” là thù,
Tất nhiên Nhà Nước(2) diệt trừ không tha.
Khoan hồng, nhân đạo chỉ là,
Mượn lời Nhân Nghiă, ba hoa bịp đời.
Lừa Nhân Thế mắc nạn chơi,
Khi nào Cộng sản thương…

người Quốc gia!!!


Tháng 11-1976.
Phân trại K1, Liên Trại 1,
Việt Cường, Yên Bái, Hoàng Liên Sơn.
(1) Việt Minh buộc dân chúng phải gọi Hồ Chí Minh là “Bác” để tỏ ḷng tôn kính.
(2) Danh từ Cộng sản dùng để chỉ Chính phủ cầm quyền quản trị quốc gia dân tộc.



RỪNG HOANG.
Cô đơn bên những cô đơn,
Phùn (1) bay rát mặt,
Bấc (1) dồn buốt da.
Âm thầm nối bước xông pha,
Ngược ḍng suối cóng xót xa thân gầy.
Rừng giang (2) chằng chịt tầng cây,
Âm u mờ ảo gây gây lạnh hồn.
Đèo cao, khe, dốc dập dồn,
Dạ dầy thôi thúc từng cơn đói ḷng.
Chiêu xuôi, theo ngụm nước trong,
Kèm bi “Thống Nhất”(3)
chập chừng khói tan.
Cho quên bao nỗi cơ hàn,
Cho tâm bền vững tính toan sự đời.
Gian truân thầm trách Ông Trời,
Bầy tṛ dâu biển khiến người khổ đau !!!


Tháng 12-1976,
K2 (Phân trại cây khế), Liên Trại 1.
Việt Cường, Yên Bái, Hoàng Liên Sơn.
(1) mưa Phùn là loại mưa nhỏ hạt dầy đặc rơi xuống nhẹ nhàng như sương mù, gió Bấc là gió rất lạnh thổi từ miền Bắc xuống vào mùa Đông tại Bắc Việt Nam.
(2) Giang là một giống tre, có gióng dài rỗng ruột, thân nạc dầy hơn tre và sợi mộc dẻo dai, tước mỏng làm lạt buộc hoặc bện thừng, chăo (rope)…
(3) Các sợi thuốc lào hiệu Thống Nhất, vê dính vào nhau thành một viên to bằng ḥn bi để nhồi vào nơ điếu và đốt hút. Hàng tháng trại phát cho mỗi tù 2 gói nhỏ chừng mấy gram để “bồi dưỡng”.



BẢN CHẤT TIỂU NHÂN.
Hiểm nguy, hổ cũng cụp đuôi,
Khốn cùng, bản chất con người bộc ra.
Xưa kia luồn cúi ba hoa,
Ra vào cửa hậu, nhờ Bà cậy Ông.
Quan cao, nhà rộng mênh mông,
Mánh mung, thâm lạm của công làm giầu.
Cấp trên, nịnh đội lên đầu,
Tùy tùng, khai thác như trâu kéo cầy.
Chậm chân chạy, phải vào đây,
Gian lao đói khổ khác ngày quyền uy.
Tâm đen bần tiện tức th́,
Lộ qua lời nói hành vi đê hèn.
Lưu manh sống cạnh người hiền,
Khác đâu lang sói ở bên đàn cừu.
Lúc sang, kênh kiệu mỹ miều,
Gặp khi hoạn nạn, xoay chiều hại nhau.
Canh ngon, hỏng tại bọ sâu,
Cây tươi, héo chết v́ bầu mối xông.
Nhẹm đi ấm ức trong ḷng,
Viết ra cho đỡ tức hông tuổi già.


Tháng 1-1977,
K2 (Phân trại cây khế), Liên Trại 1.
Việt Cường, Yên Bái, Hoàng Liên Sơn.


T̀NH NGƯỜI
XĂ HỘI CHỦ NGHIĂ !!!
Xót xa t́nh nghiă đồng bào,
Tha không xử chết, cho vào Tập trung.
Học gương lao động anh hùng,
Tập tành đắp đập, phá rừng, làm nông.
Bao giờ thành thạo reo trồng,
Chăn nuôi, canh tác tinh thông th́ về.
Xung vào Hợp tác xă quê,
Sống theo đời mới đủ nghề kiếm ăn.
Vợ, Con, khỏi phải băn khoăn,
Tội ai nấy chịu, chẳng can hệ ǵ.
Trẻ con vẫn học, vẫn thi,
Vợ theo lao động, hưởng tùy khả năng.
Thoạt nghe phấn khởi tinh thần,
Định tâm cải tạo bản thân đêm ngày.
Rêu rao chính sách thật hay,
Đến khi thực hiện đọa đầy dă man.
Gớm thay bè lũ bạo tàn,
Nỏ mồm lừa bịp thế gian nhân quần !!!


Tháng 1-1977,
K2 (Phân trại cây khế), Liên Trại 1,
Việt Cường, Yên Bái, Hoàng Liên Sơn.



KIÊN CHÍ, VỮNG L̉NG.

Sa cơ nín thở qua sông,
Lo chi xoáy cuộn, sóng vồng nổi trôi.
Định tâm giữ vững Đạo Trời,
Sống tṛn Nhân Nghiă, bĩ thời sẽ qua.
Bao năm mặc áo Cộng Hoà,
Dấn thân bảo vệ Tự do Nhân quyền.
Thế, Thời, quốc nạn đảo điên,
Có đâu thối chí lăng quên lời thề.
Kiên tŕ nhịn nhục v́ quê,
Đợi ngày thoát hạn sẽ về phục hưng.
Tàn cơn giông tố băo bùng,
Trắng đen phân tỏ : Anh hùng, Tiểu nhân.

 

 

Mùa Hè 1977,
K2 (Phân trại cây khế), Liên Trại 1.
Việt Cường, Yên Bái, Hoàng Liên Sơn.


T̀NH NGHĨA ĐỒNG TÙ.
Giúp nhau chuẩn bị lên đường,
Th́ thầm chia sẻ t́nh thương bạn bè.
Mai này cách trở sơn khê,
Chừng nào có được ngày về gặp nhau?
Bao năm cùng khoác chiến bào,
Sa cơ thất thế cùng vào Tập trung.
Bên nhau hứng chịu băo bùng,
Trăm chiều nhục nhă, cực cùng khổ đau.
C̣n đêm nay nữa bên nhau,
Dặn ḍ nhắn gửi hết câu tâm t́nh.
Ai may sớm gặp gia đ́nh,
Đừng quên tiếp tục công tŕnh dở dang.
Đừng quên Quốc hận đang mang,
Đừng quên những kẻ đầu hàng cầu vinh.
Đừng quên tội phạm chiến tranh,
Là bầy lang sói đang hành hạ dân…


Cuối tháng 10-1977,
K2 (Phân trại cây khế), Liên Trại 1,
Việt Cường, Yên Bái, Hoàng Liên Sơn.

(Kỷ niệm đêm chia tay Bạn bè tại Phân trại Cây Khế tức là K2, Liên Trại 1 do Quân đội Nhân dân quản lư, để sáng sớm ngày hôm sau lên đường di chuyển sang Trại Tân Lập tỉnh Vĩnh Phú do Công An Nhân Dân Xă Hội Chủ Nghiă quản lư.
Đây là đợt đầu tiên gồm khoảng 30 Đại Tá thuộc K2 và K3 Liên trại 1, Việt Cường, Yên Bái, tỉnh Hoàng Liên Sơn, bị chuyển giao sang cho Nhà tù Công an Nhân dân giam giữ.)

KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG.

 

 

3

3.- THÊ THẢM KIẾP TÙ KHÔNG ÁN.


VĨNH PHÚ,
MIỀN ĐẤT TỔ HÙNG VƯƠNG.
Tổ quốc Việt
Nam dựng tại đây,
Nhờ ơn Cách mạng hoá ra vầy.
Xóm làng xơ xác, dân nghèo đói,
Đồng ruộng khô cằn, thú lất lây.
Ven núi cheo leo Làng Thiểu số,
Dọc sông san sát Trại Tù đầy.
Quanh năm cặm cụi trồng khoai sắn,
Suốt tháng c̣ng lưng ép miá gầy!!!


Tháng 11-1977,
Phân trại K1, Trại Tân Lập,
Tỉnh Vĩnh Phú, Bắc Việt
Nam.

ĐÊM ĐẦU TRONG NHÀ TÙ
XĂ HỘI CHỦ NGHĨA.

Tự do thâu gọn một căn nhà,
Cửa sắt ngăn đường chặn lối ra.
Quanh Láng(*) nhởn nhơ toàn bóng Qủy,
Đêm dài lởn vởn đặc h́nh Ma.

Không gian co cụm sau tường gạch,
Không khí bao trùm chục thước vuông.
Sàn gỗ hai tầng, người sáu tấc.
Theo nhau tha thẩn Rệp đầy buồng.

Tù Người, Tù Rệp nằm chung ván,
Tranh đấu ngày đêm chẳng nhịn nhường.
Rệp hút máu Người no để sống,
Người lo diệt Rệp nát như tương.



Người, Rệp,
chung nhau cảnh đoạn trường,
Không cùng lư tưởng, hoá không thương.
Rệp chuyên hút máu nên Người diệt,
Để tránh cho đời nọc bệnh vương!!!


Tháng 11-1977,
Phân trại K1, trại Tân Lập,
Tỉnh Vĩnh Phú, Bắc Việt
Nam.
(*) Danh từ riêng, Việt Cộng dùng để chỉ dẫy nhà giam tù.


ỐC ĐẢO TÂN LẬP.
Từ đây cách trở sơn khê,
Kiếp tù không án, ngày về hẳn xa.
Trầm luân đâu một ḿnh Ta,
Trăm ngàn Chiến sĩ Cộng hoà chịu chung.
Bên nhau trong bước đường cùng,
Giữ sao khí phách anh hùng không phai.
Mặc cho Quỷ Đỏ thị oai,
Kệ thây bầy thú vô loài dương uy.
Vượng, Suy, Trời định có kỳ,
“Sắc không, không sắc”,
cớ chi nản ḷng ???


Tháng 11-1977,
Phân trại K1, Trại Tân Lập,
Tỉnh Vĩnh Phú, Bắc Việt
Nam.

NỖI L̉NG TÙ KHÔNG ÁN.
Hùng Vương Quốc Tổ thấy không?
Đồng bào cùng giống
Tiên Rồng diệt nhau.
V́ không thần phục Nga Tầu,
Không theo Bác Đảng làm trâu kéo cầy.
Sa cơ bắt nhốt vào đây,
Nếm mùi tàn bạo của bầy ác gian.
Đọa đầy cực khổ cơ hàn,
Sức ṃn lực tận tiêu tan xác phàm.
Người v́ Chính Nghiă chịu giam,
Bọn vô nhân đạo lên làm Chủ dân.
Giang sơn gấm vóc tiêu lần,
Nhân tài yêu nước, chung thân ngục tù.
Đ́nh, Chùa, Lăng, Miếu, Nhà Thờ,
Hoang tàn v́ thuyết Tam Vô bạo tàn.
Nhân dân đói khổ lầm than,
Bởi bầy Cộng sản ác gian lọc lừa.
Nỡ nào Quốc Tổ làm ngơ,
Để cho lang sói ḍng Hồ hại dân ???


Mùa Đông 1977,
Phân trại K1, trại Tân Lập,
Tỉnh Vĩnh Phú, Bắc Việt
Nam.


CÁCH MẠNG MÙA THU 1945,
CỨU NƯỚC HAY HẠI NƯỚC ?

Việt
Nam, sông núi trời mây,
Trải bao dâu biển ngày nay vẫn c̣n.
Nhờ ḍng Lạc Việt tinh khôn,
Không tham danh lợi cúi luồn ngoại bang.
Không v́ quyền tước cao sang,
Dẫn đưa dân tộc nhập hàng vong nô.
Như bầy bán nước họ Hồ,
Phục tùng Quỷ Đỏ Liên Xô nạ ḍng.
Quên đi gốc gác Tổ Tông,
Chạy theo ảo mộng Đại đồng Tam Vô.
Xoá tan ranh giới cơi bờ,
Bắt toàn dân Việt tôn thờ Mác-Lê.
Từ ngày Cách mạng Đỏ về,
Giang sơn khói lửa, dân quê bàng hoàng.
Từ thành thị đến thôn trang,
Phú, Thương, Kẻ Sĩ,
hoang mang tảng hồn.
Đấu tranh giai cấp, máu tuôn,
Diệt trừ Tư sản, xác chôn đầy đồng.
Liên minh vô sản Công-Nông,
Tiếm quyền, làm chủ nhân ông hại đời.
Phải chăng vận nước mạt thời,
Khiến cho bọn Quỷ
đười ươi lộng hành ???


Mùa Đông 1978,
Phân trại K1, trại Tân Lập,
Tỉnh Vĩnh Phú, Bắc Việt
Nam.



TÂN LẬP,
ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN.
Nắng hạn khô da nứt nẻ đồng,
Mưa nguồn lũ cuốn, khổ bần nông.
Cầm hơi lao động, lưng ca sắn,
Khắc phục bệnh thời, nắm lá xông.
Hung hăn, Cai tù hăm hở nạt,
Hững hờ, Cải tạo lạnh lùng trông.
Rừng hoang đất sỏi, chen vồng miá,
Núi trọc hầm vôi, đá chất chồng.


Hè 1979,
Phân trại K5, trại Tân Lập.
Tỉnh Vĩnh Phú, Bắc phần Việt
Nam.

TÙ CẢI TẠO
THI ĐUA LÀM CÁCH MẠNG.
Ngày trước Bác(*) làm Cách mạng Hồng,
Công Nông hợp lực cướp non sông.
Diệt Phong, đả Thực, trừ Giai cấp,
Chuyên chính chạy theo mộng Đại đồng.

Nay Đảng lại làm Cách mạng Xanh,
Bắt tù cải tạo phá đồi tranh.
Phát rừng ban núi trồng khoai sắn,
Giải quyết cho qua nạn đói hành !!!


Tết Mậu Ngọ 1978,
Phân trại K5, trại Tân lập, Vĩnh Phú.
Toàn Trại Tân Lập thi đua đầu năm

 Mậu Ngọ làm Cách mạng Xanh.
(*) Bác Hồ Chí Minh, tay sai của Đảng Cộng sản Quốc tế do Liên Sô lănh đạo.


TRUYỆN THĂM NUÔI.
Gặp nhau bốn mắt tṛn xoe,
Máu dồn tê mặt, lệ nhoè khoé mi.
Nghẹn ngào chẳng biết nói ǵ,
Không gian trùm phủ mây ch́, gió Đông.
Vươn tay tính nắm tay chồng,
Bàn tre ngăn cách,
đành trông ngậm ngùi.
Oai phong Cán bộ rung đùi,
Mặt vênh lên giọng nhắc lời Nội quy.
“LẾU” ai vi phạm, tức th́,
Chồng vào kỷ “NUẬT”, Vợ về cấm thăm.
Vợ chồng đưa mắt hiểu ngầm,
Ngập ngừng hỏi truyện
những năm vắng nhà.
Truyện sinh sống tháng ngày qua,
Truyện con thay đổi học xa, học gần(*).
Truyện bè bạn, họ hàng thân,
Truyện đời đổi mới cận lân thế nào?
Xa xôi bóng gió đổi trao,
Mập mờ tiếng lóng xen vào báo tin.
Hiểu ra thời thế đảo điên,
Vợ, Con, tủi cực triền miên tháng ngày.
Xót xa nuốt lệ bó tay,
Gượng khuyên lao động
hăng say với người.
Từ rày vạn dặm xa xôi,
Gửi quà Bưu kiện tiếp bồi cũng xong.
Cần luôn can đảm vững ḷng,
Giữ ǵn sức khoẻ đợi trông ngày về.
Hạn thăm mươi phút vừa kề,
Cán hô : “Ra lănh quà, về khẩn trương!”
Chia tay chồng vợ luyến thương,
Vội vàng ôm đại giữa đường, hôn nhau.
Cán trông hờ hững hối mau,
Rơ ṇi Cộng sản, biết đâu… nghiă t́nh!!!


Mùa Đông 1979,
Phân trại K5, trại Tân lập, Vĩnh Phú.
(*) Hỏi mánh xem có ai vượt biên trốn được ra nước ngoài không?


THÔNG CẢM ĐỒNG MINH PHẢN BỘI.
Ta thông cảm, v́ chiến lược toàn cầu,
Bạn “Cờ Hoa” phải dứt t́nh cuốn gói.
Nghe “Bồ” gọi, vẫn ngoảnh mặt làm ngơ.
Bỏ “Be bờ”, diệt Liên Sô tận gốc.
Hai rắn độc, cần loại bớt một con,
Phải phân rẽ Nga, Tầu, nhằm hạ độc.
Biến thời cơ, nên tức tốc thay đ̣n,
Gác lương tâm, kệ bạn đường vương lụy.
Ta kiên tŕ chịu đựng giữa nguy nan,
Âm thầm đợi, cảnh biển dâu đổi dạng…

QUYẾT BỀN TÂM VỮNG CHÍ.
Đồng minh phản bội thoát thân,
Mặc Ta chịu cảnh phong trần bấy lâu.
Gió sương mưa nắng dăi dầu,
Thảm thương tiều tụy như trân ngựa già.
Âm thầm đếm tháng ngày qua,
Kiên tâm chịu đựng để mà đợi trông(*).
Qua cơn nước lũ hăi hùng,
Mài gươm tiếp tục vẫy vùng đó đây.
Xoá màn đêm giữa ban ngày,
Cho Giang sơn Việt tràn đầy t́nh thương.
Tự do rực mọi nẻo đường,
Nhân quyền toả khắp quê hương an b́nh.
Cầu xin Quốc Tổ hiển linh,
Độ Trăm Họ thoát cực h́nh Tam Vô.
Sớm khôi phục lại cơ đồ,
Việt Nam Dân chủ Tự do Phú cường.


Mùa Xuân 1980,
Phân trại K5, trại Tân Lập, Vĩnh Phú.

(*) Lúc đó các gia đ́nh đến thăm nuôi lén báo cho Tù biết là Hoa Kỳ, Liên Xô, Trung Cộng và các nước trong HCR (Cao ủy Quốc tế Tỵ nạn của Liên Hiệp Quốc) đang họp cùng Chính quyền Cộng sản Hà Nội tại Genève, để vừa thương thuyết vừa áp lực Chính quyền Cộng sản Hà Nội phải thả hết Quân Cán Chính Việt Nam Cộng Hoà bị bắt giam suốt từ 30-4-1975 chưa được tha ra khỏi các trại tập trung cải tạo trên toàn đất nước Việt Nam, và cho được cùng vợ con đi định cư tại

 

 

 

 

Hoa Kỳ.
KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tiếp theo (trích  Đoạn  4 ,5 và 6) Next

 

 

 

 

 

 

 

 

    

4

4.- KIẾP LƯU ĐẦY
TRÊN ĐẤT BẮC XĂ HỘI CHỦ NGHIĂ.

MÚT MÙA LAO KHỔ.
Môi trường cải tạo cheo leo,
Đo rừng Yên Bái, đếm đèo Trường Sơn.
Sắn khô lưng chén thay cơm,
Đọt lang dăm cọng, muối om(*) nửa thià.
Nắng nung nối bước nhau đi,
Mưa Phùn gió Bấc, lầm ĺ Cán theo.
Vắt kim, điả đói bám đeo,
Muỗi ṃng khát máu mừng reo cả bầy.
Run run những tốp thân gầy,
Bên nhau lặng lẽ đốn cây phá rừng.
Đói, phi bi thuốc môi rung,
Lơ mơ nhả khói, mung lung truyện đời.
Trợn trừng Cán nạt thị oai,
Lăm lăm ṇng thép hăm đ̣i cùm chân.
“Chỉ tiêu tối thiểu định phần,
“NÀM” chưa đạt mức,
“NẦN” khân nghỉ hoài.”
Tù trong chịu phép Tù ngoài,

“Ếch ngồi đáy giếng,
thấy trời bằng vung”.
Xót thương Chiến sĩ anh hùng,
Sa cơ đành chịu sống cùng bọn ngu !!!


Tháng 1-1980.
Phân trại K2, trại Thanh Phong,
Huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá.
(*) Muối hột lớn bỏ vào nước đun sôi cho hoà tan để phát làm nước gia vị.



TẾT BUỒN
GIỮA L̉NG TRƯỜNG SƠN.
Xuân vẫn là Xuân, Ta vẫn Ta,
Khác chăng là ngoại cảnh rừng già.
Lăng xăng ngoài giậu, Công an đỏ,
Lặng lẽ trong rào, Cải tạo gia.
Khỉ, cú, trẽn trơ nh́n nước đổ,
Anh hùng, sầu muộn nhớ thời qua.
Mưa Phùn gợi nỗi thương Dân tộc,
Gió Bấc khơi lo vận nước nhà!!!


Tết Canh Thân 1980,
Phân trại
K2, trại Thanh Phong,
Huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá.


GÓI ƯU TƯ.
Gió đưa nhẹ lá vàng rơi,
Nghiêng nghiêng nắng ngả
bóng đời vào Thu.
Lom khom ven núi đoàn Tù,
Khua dao, múa cuốc, ngất ngư vạn sầu.
Gió sương hun bạc mái đầu,
Rừng hoang chặn lối, thấy đâu đường về.
Âm thầm ngày tháng lê thê,
Mây ngàn thăm thẳm bóng quê mịt mù.
Xuyên trời vụt bóng chim cu,
Làm sao gửi gói ưu tư nghẹn ngào ???


Giữa ḷng Trường Sơn, Thu 1980,
Phân trại K2, trại Thanh Phong
Huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá.



XÓM HOÁN BÙ.
Sửa đường xuyên xóm Hoán Bù,
Phùn (1) giăng, Bấc (1) thổi
mịt mù rừng hoang.
Tranh nghèo mươi mái chắn ngang,
Thành phần Đảng buộc bỏ làng đến đây.
Xưa kia Cố Nội theo Tây,
Thuộc ḍng “Tư sản” phải đầy cách Dân.
Bốn năm chuyển chỗ một lần,
Thâm sơn cùng cốc, trước gần sau xa.
Quần quây
Nam, Nữ, Trẻ, Già,
Bên nhau cả họ tham gia cuốc cầy.
Thiếu nhi tuổi trẻ thơ ngây,
Gom phân, cắt cỏ hàng ngày định công.
Tuổi già sáu chục lưng c̣ng,
Trăn trâu, giữ trẻ, vợ chồng chia lo.
Sắn ngô độn bữa đói no,
Thân choàng áo đụp co ro cơ hàn.
Ốm đau, lá ngải (2) xông than,
Mệnh chung,
vùi xác nghiă trang bià rừng.
Suy ra, cũng loại tập trung,
San bằng giai cấp ra nông nỗi này.
Sống nay chẳng biết đến mai,
Cuộc đời tăm tối nào ai thấu cùng.
Oán than dâng vọng Thiên Cung,
Hỡi Trời!
Thấy cảnh năo nùng này chăng ???


Xuân Tân Dậu 1981,
Phân trại K1, Trại Thanh Phong,
Huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá.
Toàn Phân trại K2 phát động đợt “Thi đua” đầu năm Tân Dậu, sửa đường cho xe hơi chạy, từ phân trại K2 đi phân trại K3 thuộc trại Thanh Phong, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá.
(1) Mưa Phùn gió Bấc.
(2) Ngải Cứu là một loại thảo, mọc xen lẫn trong cỏ hoang, h́nh thù cây và mùi vị thơm hăng hắc giống như rau cúc, nhưng có chất nhựa rất đắng, thường được dân gian Việt Nam dùng làm một trong các vị thuốc Nam. Hoặc bỏ vào nước cùng với lá tre, lá bưởi, lá xả, cỏ mần trầu, đem đun sôi lên dùng làm thuốc xông cho đổ mồ hôi để trị bệnh cảm sốt. Hoặc đem xào nóng trên lửa, rồi cuộn trong miếng vải để chườm trên những nơi có thương tích bầm tím và đau nhức trên cơ thể. Hoặc bỏ vào chậu than đang đỏ rực, cho ngún cháy dần toả ra mùi thơm để lấn át các mùi hôi hám khác trong căn pḥng. Hoặc bằm nhỏ phơi khô, trộn chung với các vị lá thuốc khác bỏ vào nồi nước nấu lên để uống trị các bệnh về nội tạng...


ĐÊM CUỐI CÙNG
GIỮA L̉NG TRƯỜNG SƠN.

Bâng khuâng nh́n lửa bập bùng,
Đắng cay gửi lại núi rừng Trường Sơn.
Chia tay khe thẳm, thác nguồn,
Xa ĺa muỗi vắt, chim muông, khỉ già.
Quên đi ḷ gạch, đồi trà,
Mặc bầy ve núi reo ca nắng hè.
Nhớ chi nấm mối, măng tre,
Tiếc ǵ mộc nhĩ nấu chè thả sương.
Kệ cây sung mọc ven đường,
Gió rung, trái chín văi vương, kiến ṃ.
Suối trong nương náu cá, cua,
Tha hồ sinh sản cho c̣ kiếm ăn.
Chẳng c̣n đụng rắn, gặp trăn.
Sói lang, chồn cú lăng xăng ngoài rào.
Từ mai giă biệt vùng cao,
Đồng bằng rộng mở đón chào cố nhân !!!

TÂM SỰ BẠN ĐỒNG SÀNG(*).
Thăm thẳm rừng khuya lửa bập bùng,
Màn Trời chiếu Đất, bạn đâu lưng.
Th́ thầm trao đổi niềm tâm sự,
Thoát nạn, đừng quên trách nhiệm chung
.
Đêm 23-4-1982,
Phân trại K1, trại Thanh Phong,
Huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá.

(*) Trưa ngày 22-4-1982, vào giờ xuất trại lao động chiều, khoảng một trăm người thuộc Phân trại K2 được gọi tên chuyển trại (có 14 Đại Tá), được dồn vào ở trong khu cách ly làm thủ tục.
Qua ngày hôm sau
23-4-1982, vào lúc xế chiều, Cán bộ áp tải đi bộ 5 cây số đường rừng rời K2, đến sẩm tối th́ tới K1. Mọi người cùng nằm ngủ qua đêm giữa sân “tập kết” của Phân trại K1 trại Thanh Phong, đợi sáng sớm hôm sau lên xe vận tải di chuyển đi trại khác.
Vào lúc khuya, anh em Biệt kích bị giam tại K1 phụ trách phát cơm cho ăn đường, bí mật rỉ tai báo cho biết là gần sáng xe tải sẽ chở ra ga Thanh Hoá để lên tầu hoả di chuyển về Miền
Nam.


HẾT LƯU ĐẦY BIỆT XỨ.
Mây ngàn phủ kín thương đau,
Tưởng xa vĩnh viễn, ngờ đâu lại về.
Mừng ôi! Mắt lệ dầm dề,
Tim rung rộn ră đê mê sóng t́nh.
Tầu qua Bến Hải, Gio Linh,
Băng sông Thạch Hăn,
đất B́nh Trị Thiên.
Long lanh bao ánh mắt hiền,
Ngóng Tù cải tạo b́nh yên trở về.
Lưng cong, dựa mái tóc thề,
Trẻ thơ hớn hở, hương quê nồng nàn.
Nắng Hè vương gió Trường Sơn,
Ruộng đồng mầu mỡ,
chứa chan t́nh người.
Giạt dào sóng rộn biển khơi,
Buồm trương thẳng cánh mây trời bao la.
Bàng hoàng như sống trong mơ,
Dịp may ập đến, bất ngờ, hân hoan !!!


Ngày 24-4-1982,
Trên đoàn tầu Thống Nhất rời Thanh Hoá để trở về Miền
Nam.
Đoàn tầu rời ga Thanh Hoá vào khoảng 9 giờ tối ngày 23-4-1975, chạy liên tục suốt đêm và suốt ngày hôm sau 24-4-1975, đến khoảng quá nửa đêm th́ tới ga Gia Rai trong vùng Quận Hàm Tân, tỉnh Thuận Hải, mọi người xuống tầu và được cán bộ áp tải tháo bỏ c̣ng xích tay hai người làm một, để tiếp nhau chất hành trang lên xe tải di chuyển vào Trại Z30C (trại Hàm Tân).


KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG.
5 

 

5.- TIA SÁNG CUỐI ĐƯỜNG HẦM.

 


XUÂN TÁI NGỘ MIỀN NAM.
Rừng Lá Hàm Tân mai nở vàng,
Đoàn Tù Chính trị vui ca vang.
Xuân qua đất Bắc, trời u ám,
Tết đến Miền
Nam, nắng dịu dàng.
Việt Cộng vong nô hành khổ nhục,
Cộng Hoà chiến sĩ vẫn hiên ngang.
Trà Blao (1) nhấm nháp hương đoàn tụ,
Cẩm Lệ (2) ph́ phèo khói nạn tan.


Tết Quư Hợi 1983,
Phân trại K1, trại Z30C,
Quận Hàm Tân, tỉnh Thuận Hải.

(1) Trà sản xuất tại Blao tỉnh Lâm Đồng.
(2) Thuốc lá sản xuất tại Cẩm Lệ tỉnh Thừa Thiên.



NGHIĂ T̀NH CHIẾN HỮU
VIỆT
NAM CỘNG H̉A.
Sa cơ lao khổ bên nhau,
Nắng mưa chia sẻ nhịp cầu đắng cay.
Một mai thoát đại họa này,
Gặp nhau nâng chén mừng ngày Tự do.
Đấu tranh dựng lại cơ đồ,
Cho Dân tộc Việt ấm no thịnh cường.
Công bằng trải khắp quê hương.
Nhân quyền, Dân chủ,
T́nh thương hài hoà.
Trẻ già mọi giới hoan ca,
Chung lưng bảo vệ sơn hà Việt
Nam.
Đập tan Cộng đảng gian tham,
Trừ loài vong bản từng làm hại Dân.
Diệt phường ác quỷ vô thần,
Phục hưng luân lư, Đạo Nhân Lạc Hồng.


Mùa Hè 1983,
Phân trại K1, trại Z30C,
Quận Hàm Tân, tỉnh Thuận Hải.

NHÀ KỶ LUẬT Z30D.
Được Ta(*), bầy muỗi hoan ca,
Đua nhau vồn vă ào ra đón chào.
Thi đua thưởng thức máu đào,
Vo ve khen vị ngọt ngào không tanh.
Luân phiên hút suốt năm Canh,
Say sưa bội thực lăn kềnh ngay đơ.
Phần Ta, khua đập mệt phờ,
Trắng đêm không ngủ
đợi chờ Rạng Đông.
Cổ chân kẹt cứng trong gông,
Ngồi lên nằm xuống, đau hông nhức ḿnh.
Vuốt râu cọp, chịu nhục h́nh,
Mới hay, Thù, Bạn,
nhân t́nh khác nhau!!!


Mùa Hè 1984,
Phân trại K1,
Trại Z30D (trại Thủ Đức),
Quận Hàm Tân, tỉnh Thuận Hải.

(*) Tác giả Nguyễn-Huy Hùng (Tù tập trung cải tạo thuộc Đội 23) công khai chống lại lệnh phi lư của tên Giám Thị Nhu (Bí thư Đảng bộ trại giam) trước đông đảo bạn tù Nam Nữ thuộc Phân trại K1 đang tắm tại bến phiá trên đập nước, nên đă bị bắt giam vào nhà kỷ luật phạt cùm một chân suốt 7 ngày 7 đêm liền. Sau đó c̣n bị cấm không cho nhận tiếp tế và gặp thân nhân đến thăm nuôi trong thời gian ba tháng.



“CHIẾU CỐ”(1) ĐỘI 23 ???
Quan tâm mấy Bác đội già,
Giao cho việc nhẹ phát bờ trồng rau.
Gây vườn đu đủ, giàn bầu,
Vườn tiêu, táo Thái, ớt trâu, chuối chà.
Chia nhau thành Tổ chuyên lo,
Khâu phân sáng vét chuồng ḅ tập trung.
Xe về pha lẫn phân thùng (2),
Trộn tro, bằm nhỏ cho cung hợp cầu.
Dạng chân, khâu đất dăi dầu,
Cuốc, ban, lên luống, cao sâu tùy thời.
Khâu reo, sẻ rănh đập tơi,
Chổng mông văi giống,
cầu Trời đừng mưa.
Rau lên, tiả, giặm cho vừa.
Sới, vun, lặt cỏ, phun ngừa sâu ăn.
C̣ng lưng, khâu nước luôn chân,
Xuống, lên, bờ dốc, trăm lần chửa xong.
Đôi thùng nước trĩu đ̣n cong,
Tưới chưa kịp thấu hết ṿng đă khô.
Âm mưu thâm độc vô bờ,
Đọa đầy vất vả gấp ba đội thường.
Sáng đi, trưa ở hiện trường (3),
Tối về tới trại, đèn đường đă lên.
Mưu sâu phân cách dưới trên,
Ngăn ngừa hiểm họa
tuyên truyền đàn em.
Đặt điều : “-Tránh trẻ quấy phiền,
Những ngày Lễ nghỉ, đội nên ra ngoài.
Nhà Lô bên suối thảnh thơi,
Tha hồ nấu nướng, nh́n trời ngắm mây.
Bẫy chim, câu cá, ṃ trai,
Nuôi gà cải thiện hàng ngày khoẻ hơn.”
Biết rằng xảo quyệt gian ngoan,
Phận tù vẫn phải hân hoan tri hành.
Đối đầu Giám Thị lưu manh,
Chuốc thêm khổ nạn,
nên đành lặng thinh.
Thế thời đang lúc chuyển ḿnh,
Hoa Kỳ Việt Cộng điều đ́nh việc tha (4).
Cho Tù chính trị về nhà,
Để cùng thân quyến đi ra nước ngoài.
Định cư dựng lại cuộc đời,
Thoát ṿng kiềm tỏa độc tài Cộng nô.


Giao mùa Thu Đông 1986,
Phân trại K1, trại Z30D,
Quận Hàm Tân, tỉnh Thuận Hải.
(1) Từ riêng Việt Cộng dùng có nghiă như quan tâm đặc biệt ban cho ai một ơn huệ nào đó.
(2) Phân người, lấy từ các thùng chứa trong các Láng giam do tù thải ra ban đêm.
(3) Vùng đất quy định cho mỗi đội tù đến lao động hàng ngày.
(4) Tin tức do những người di tản hồi
30-4-1975 đang định cư tại Hoa Kỳ, gửi về thông báo cho thân nhân tù chính trị đang kẹt tại Việt Nam biết.


TẬP ĐOÀN
XĂ HỘI CHỦ NGHIĂ
ĐỔI MỚI,
MỞ CỬA,
CỞI TRÓI !!!
Tập quyền theo mẫu Liên Xô,
Chỉ huy kinh tế, bây giờ lao đao.
Mênh mông sóng hận dâng trào,
Căm thù sôi sục đồng bào đứng lên.
Gian manh muốn giữ vững quyền,
Bầy tṛ “đổi mới” cho yên tạm thời.
Cùng loài Chồn, Cáo, đổi ngôi,
Một ḍng Lang, Sói, hại đời khác chi!
Tam Vô, bất nghiă, bất ngh́,
Mẹ Cha c̣n đấu, xá ǵ người dưng.
Thế thời căng, chẳng đặng đừng,
Phải liều “mở cửa”
đón mừng Tây phương.
Liên Sô hăng hái mở đường,
Chạy theo Kinh tế Thị trường cứu nguy.
Tổng Linh(1) học mót tức th́,
Hô hào “cởi trói” phóng đi theo Thầy(2).
Yêu cầu đại chúng tiếp tay,
Vạch sai lầm, để Đảng thay chính quyền.
Rặc phường “ngoan cố” tự chuyên,
Gặp nguy, lừa lọc truyên truyền cho qua.
Hệt như miệng lưỡi Hồ già,
Lừa Dân hại Nước mới ra nỗi này.
Bao lần nhận lỗi, sửa sai,
Hứa nhăng hứa cuội,
sửa hoài chẳng xong.
Nay c̣n chi nữa mà mong,
Công, Nông, Văn sĩ đồng ḷng đứng lên.
Quyết đ̣i Dân chủ Nhân quyền,
Đ̣i thay chế độ Nhất Nguyên độc tài.
Ngày tàn hẳn đến nay mai,
Đảng liền đổi giọng lừa ngoài bịp trong.
Hoan hô hoà hợp Tây Đông,
Gia tăng xuất khẩu lao công kiếm tiền.
Bỏ khâu hợp tác (xă) độc quyền ,
Cho Tư thương được tự nhiên hành nghề.
Kiều bào, quà gửi thoả thê,
Thân nhân nộp thuế lănh về bán buôn.
Chẳng cần suy tính thiệt hơn,
Miễn sao có, để sống c̣n th́ thôi.
Đang khi Việt Cộng bĩ thời,
Hoa Kỳ thương thuyết xét coi việc Tù.
Đổi trao theo luật bù trừ,
Thả Tù, Viện trợ, Đảng thu món hời.
Hoa Kỳ, Việt Cộng cùng vui,
Tiếng thơm nhân đạo t́nh người dội vang.
Chương tŕnh vui vẻ cả làng,
Đoàn Tù Cải tao xốn xang đêm ngày.
Đợi tờ lệnh thả đến tay,
Gia đ́nh đoàn tụ dựng xây lại đời.


Muà Xuân Bính Dần, 1986.
Phân trại K1, trại Z30D,
Quận Hàm Tân, tỉnh Thuận Hải.


(1) Nguyễn văn Linh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt
Nam.
(2) Gorbachev, Tổng Bí thư cuối cùng của Liên Bang Sô Viết Cộng sản.




 

CÙNG ĐƯỜNG,
TA VẪN LÀ TA.

Lũ lụt non sông nước đục ngầu,
Đỏ, Xanh, hoà lộn biến thành Nâu.
Vàng ṛng nung lửa càng tinh khiết,
Đen, Trắng, muôn đời vẫn khác nhau.
-o-o-o-
Thời gian chồng chất mái đầu,
Nắng mưa vương tóc ngả mầu muối tiêu.
Giang sơn tan tác tiêu điều,
Toàn dân cùng cực trăm chiều đắng cay,
Thề xưa vẫn nhớ đêm ngày,
Kiên tâm nhịn nhục bấy nay đợi chờ.
Nạn tan tái tạo thời cơ,
Mài gươm tiếp tục ước mơ thuở nào.
Chung vai sát cánh đồng bào,
Diệt bầy Quỷ Đỏ, trương cao cờ Vàng.
Cứu Dân Việt hết lầm than,
Nhân quyền Dân chủ hân hoan mọi nhà.


Ngày
18-1-1988,
Bệnh viện điện Biên Phủ,
Saigon.

(Ngày
16-1-1988, tác giả Nguyễn-Huy Hùng bệnh nặng thổ ra huyết tại nhà thăm nuôi Phân trại K1, được đưa vào Bệnh xá trại cấp cứu.
Đến sáng ngày 17-1-1988 mới được xe của trại Z30D di tản đi Saigon, vào nằm Bệnh viện Điện Biên Phủ (Saint Paul cũ) để mổ mắt trái bị cườm không trông thấy đường từ hơn một năm về trước, và điều trị bệnh tim bỏ nhịp, xuất huyết bao tử.
Được các bệnh nhân dân sự, cũng là thân nhân tù cải tạo, nằm cùng pḥng giúp đỡ che chở như người thân, nên cảm hứng làm mấy vần thơ trên đây.)


KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG.

 

 Cảnh hoả châu soi sáng ven đô Saigon trước 30-4-1975.

 

 

 

Cảnh ban đêm của chợ Bến Thành Saigon và tượng Tướng quân Trần Nguyên Hăn (Thánh Tổ Binh chủng Truyền Tin Quân lực Việt Nam Cộng hoà).

6


6.- NHÀ TÙ LỚN
CỘNG HOÀ XĂ HỘI CHỦ NGHIĂ VIỆT
NAM.


HẾT NẠN CẢI TẠO (*).


Bệnh hoạn đem Ta khỏi trại tù,
Giă từ lang sói chốn âm u.
Cú, diều, khỉ đột tha hồ hú,
Suối, thác, mưa rừng mặc sức ru.
Thoát cảnh chim lồng đầy tử khí,
Nhập khung ốc đảo đặc quân thù.
Hết thời cải tạo vui đoàn tụ,
Nhấp chén ân t́nh say ngất ngư !!!


Saigon 15-2-1988,
Đêm tự do sau 13 năm cải tạo.
(*) Tác giả NGUYỄN-HUY HÙNG đang nằm điều trị tại Bệnh viện Điện Biên Phủ từ ngày
17-1-1988. Bỗng dưng vào khoảng 3 giờ chiều ngày 15-2-1988, cán bộ Công an đi theo canh chừng suốt ngày đêm, đưa cho tờ Lệnh tha ra khỏi trại cải tạo, về đoàn tụ với gia đ́nh tại Tư gia số 206A, đường Lê văn Sĩ, Phường 10, quận Phú Nhuận, Saigon. Không c̣n là tù cải tạo, tác giả Nguyễn-Huy Hùng liền xin Bác sĩ điều trị cho xuất viện ngay để về nhà vào lúc 5 giờ chiều cùng ngày.

 

 

 


TỰ DO
XĂ HỘI CHỦ NGHIĂ ???


Ngoài nơi lao lư vẫn thân tù,
Báo Quận, tŕnh Thành, mệt ngất ngư.
Xê dịch xa nhà cần giấy phép,
Buôn bưng, bán lẻ, phải chi xu.
Đêm ngày ŕnh rập, dân cḥm xóm,
Năm tháng theo ḍ, mật vụ khu.
Độc Đảng độc quyền, Dân chủ nhỉ ???
Tam Vô chuyên chính, Tự do ư ???


Mùa Thu Mậu Th́n 1988,
Phường 10, quận Phú Nhuận, Saigon.

MỪNG SẮP QUA BĨ VẬN (*)


Kỷ Tỵ hân hoan đón Lục Tuần,
Cháu Con hớn hở chúc mừng Xuân.
Thế t́nh nghiêng ngửa, tâm bền vững,
Tạo hoá vần xoay, tuổi thọ lần.
Tổ Họ Nguyễn-Huy, ḍng Nghiă Sĩ,
Quê Cha Phù Đổng, đất Linh Thần.
Sắp qua bĩ vận đời thay đổi,
Sẽ tới vượng thời tái lập thân.


Ngày 6-9-1989, Tết Kỷ Tỵ.
Phường 10, quận Phú Nhuận, Saigon.
(*) Đầu năm 1989, sau khi đă thoả thuận với Hoa Kỳ, nhà nước Cộng hoà Xă hội Chủ nghiă Việt Nam ra quyết định thông báo cho các tù cải tạo trên 3 năm đă được tha về đoàn tụ với vợ con, được nộp hồ sơ xin cùng gia đ́nh đi định cư vĩnh viễn tại một quốc gia nào đó ngoài đất nước Việt Nam, theo Chương tŕnh Nhân đạo H.O. (Humanitarian Operation).


NHÀ NƯỚC CHIẾU CỐ !!!


Nay Phường, mai Quận ghé thăm,
Ân cần dọ hỏi, ăn làm ra sao?
Xuân, Thu, thêm cán cấp cao,
Trên Thành (1), ngoài Bộ (2),
cũng vào viếng chơi.
Ngọt ngào khuyên dụ đủ lời,
Tuổi cao cần phải nghỉ ngơi dưỡng già.
Bắc Nam nay đă một nhà,
Đảng đang “đổi mới”
quốc gia thịnh cường.
Ra đi sống kiếp tha phương,
Thân già lận đận gió sương xứ người.
Tránh sao khỏi phận tôi đ̣i,
Làm thuê vất vả để nuôi thân già.
Chi bằng ở lại quê nhà,
Xin con “di tản” cấp cho tiền xài.
Thân già sung sướng như Trời,
Bôn ba thêm mệt cuộc đời ích chi.
Ậm ờ cho quỷ khỏi nghi,
Đợi tờ Hộ Chiếu, quyết đi nước ngoài.
Cho con cháu có tương lai,
Cho ḿnh chuẩn bị một mai trở về.
Diệt bầy Cộng, dựng lại quê,
Cho Dân Tộc được mọi bề Tự do.
Sống trong hạnh phúc ấm no,
Nhân quyền, Dân chủ, nở hoa sáng ngời.


Mùa Thu Kỷ Tỵ 1989,
Phường 10, quận Phú Nhuận, Saigon.
(1) Cán bộ đại diện Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
(2) Cán bộ đại diện Bộ Công An của nhà nước tại Hà nội.

MỎI MẮT CHỜ
HỘ CHIẾU XUẤT CẢNH.


Mỗi năm Xuân đến mắt thêm loà,
Sương gió cuộc đời khắc nếp da.
Thời Tiết tới kỳ chồi vẫn nẩy,
Thiên nhiên biến hoá lá c̣n ra.
Ṿng xoay năm tháng, mơ dang dở,
Luân chuyển đêm ngày, mộng lướt qua.
Thế giới chuyển ḿnh hừng khí thế (*),
Sáu mươi mốt tuổi hẳn chưa già !!!


Đêm Giao thừa, 21-1-1990 Canh Ngọ
Phường 10, quận Phú Nhuận, Saigon.
(*) Liên bang Sô Viết Cộng sản sau thời gian đổi mới, đang bị phân hoá để tan ră.
.
Dũng trong thời gian này, đúng ngày cuối năm âm lịch Kỷ Tỵ, gia đ́nh tác giả Nguyễn-Huy Hùng nhận được Hộ Chiếu do Nhà nước Cộng hoà Xă hội Chủ nghiă Việt Nam cấp cho đi định cư vĩnh viễn tại Hoa Kỳ. Nhận được Hộ chiếu rồi, c̣n phải chờ Đại diện Hoa Kỳ tại Saigon gọi đến phỏng vấn để xét và quyết định có chấp thuận cho đi hay không
HOÀI CỐ NHÂN


Thượng Tọa Thanh Long(*) đă măn phần,
Khuôn Thiền Giác Ngạn vắng Hiền quân.
Bốn Mùa khổ hạnh xây công đức,
Tám Tiết tu thân diệt Lục Trần.
Dứt kiếp luân hồi về cơi Phật,
Lià thân cát bụi hết trầm luân.
Danh thơm Đạo đức lưu muôn thuở,
Gương sáng Từ bi rạng Thế nhân.


Mùa Thu Tân Mùi 1991,
Phường 10, quận Phú Nhuận, Saigon.
(*) Thượng Tọa Thích Thanh Long, trước 30-4-1975 là Giám đốc Nha Tuyên úy Phật Giáo Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Ngài thân quen với tác giả Nguyễn-Huy Hùng từ hồi c̣n làm Tuyên úy tại Bộ Tư lệnh Địa phương quân và Nghiă quân từ năm 1965 đến 1967. Ngài cũng phải đi cải tạo 12 năm, giữa năm 1987 mới được tha về cư trú tại Chùa Giác Ngạn do chính Ngài đă có công xây dựng lên từ trước năm 1975. Sau bao năm tháng tù đầy, Ngài suy yếu bệnh hoạn đến khoảng giữa tháng 10 năm Tân Mùi 1991 th́ qua đời, nhục thể được hoả táng ngày 20 tháng 10 năm Tân Mùi 1991 và lưu tại tháp thờ xây ngay trong phiá phải sân Chùa Giác Ngạn.


HƯƠNG VẬN MỚI


Nhâm Thân đến,
toàn Thế Giới chan hoà hương vận mới,
Chúa Xuân về,
khắp Năm Châu rực rỡ ánh vinh quang.


XUÂN HÂN HOAN
Mai vàng xoè cánh đón Nhâm Thân,
Pháo đỏ reo vang rước Hỷ Thần.
Xuân lộc dạt dào hương nhựa sống,
Không gian chan chứa ánh kim ngân.
Đông Tây (1) hoà hiệp xây Dân chủ,
Nam Bắc (2) tương giao tạo hợp quần.
Trời Đất xoay vần qua vận mới,
Đại gia đoàn tụ hội Long Vân (3).


Tết Nhâm Thân, ngày 4-2-1992.
Phường 10, quận Phú Nhuận, Saigon.
(1) Liên Bang Sô Viết Cộng sản tan ră để thành lập Liên Bang Nga, các nước Cộng sản Đông Âu cũng bỏ chế độ Cộng sản, đổi h́nh thức sinh hoạt chính trị theo chế độ Tự do Dân chủ Tư bản của Liên Bang Hoa Kỳ và các nước Tây Âu.
(2) Khu kinh tế Bắc Bán Cầu gồm các nước giầu có nền kinh tế phát triển hiện đại, và Khu kinh tế Nam Bán Cầu gồm các nước nghèo chậm tiến mới đang bắt đầu phát triển.
(3) Hội Rồng Mây theo các Cụ xưa dùng để miêu tả trạng thái hạnh phúc vui sướng tột đỉnh của trường hợp thành đạt vẻ vang cao sang trong xă hội.



GIĂ BIỆT NHÀ TÙ LỚN
CỘNG HOÀ
XĂ HỘI CHỦ NGHIĂ
VIỆT NAM


Bỏ nước ra đi dạ vấn vương,
Cộng nô kỳ thị phải lên đường.
Thương Dân lận đận đầy oan nghiệt,
Xót Bạn lao đao nặng đoạn trường.
Hạnh phúc Tự do hừng Thế giới,
Khổ đau kềm kẹp phủ Quê hương.
Lưu vong quyết tạo thời cơ mới,
Trở lại cùng Dân diệt bạo cường.


Vào Thu Nhâm Thân,
b́nh minh ngày 5-8-1992.
Tác giả Nguyễn-Huy Hùng và toàn gia đ́nh gồm Vợ, các Con, các Cháu, cả thẩy 16 người, lên phi cơ Hàng không Dân dụng Việt Nam, rời phi trường Tân Sơn Nhất, Saigon vào lúc 8 giờ sáng đi Thái Lan, để hoàn tất các thủ tục nhập cảnh và chuyển đổi máy bay đi định cư vĩnh viễn tại Hoa Kỳ theo Chương tŕnh Nhân đạo (Humanitarian Operation) H.O. 10, để cùng nhau xây dựng cuộc đời mới hoàn toàn Tự do Hạnh phúc của người công dân Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ./.
KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG