Nửa Khuya Đọc Thơ Tù của HT. Quảng Độ

 

Đào Văn B́nh

 

Cơn đại hồng thủy 30-4 kéo tới phá xập cả đ́nh, chùa, nhà thờ, lăng miếu và đẩy cả nước vào một ngục tù khổng chưa từng thấy tại Việt Nam. Tuy nhiên chế độ ngục tù này khác hẳn với ngục tù của thuở xa xưa. Thi Vũ Vơ Văn Ái trong bài giới thiệu tập thơ đă nhận xét thật sâu sắc khi ông viết Dưới các triều đại bạo ác, tù ngục biểu trưng cho sự hà khắc, bức hiếp. Kỷ nguyên tù Việt Nam ngày nay vượt xa lằn ranh tàn bạo, trở thành cuộc diệt chủng văn hóa và đạo đức. Vị thế người bị đẩy xuống tầng đáy hạ nhân, súc vật, ngạ quỷ (quỷ đói). Người đâu c̣n là người khi mất tiếng nói? Người đâu c̣n là người khi hết được độc lập suy tư? Lạ thay, ở nơi sơn cùng thủy tận lặng câm ma quái ấy, Thơ hiện lên như một niềm hy vọng.” (Trang14). Đúng vậy, thơ làm trong tù ngục, ng̣ai nỗi oán than, c̣n nổi lên như một niềm hy vọng, một cứu cánh giải thóat. Bởi v́ nếu địa ngục là sự chết th́ thơ là sự sống. Nếu kiếp tù là tuyệt vọng th́ thơ là niềm tin. Nếu bạo lực tù hăm xác thân th́ thơ có thể cởi trói. Thơ nâng ta dậy, thơ giúp ta bay bổng ra khỏi nhà tù, thơ nuôi dưỡng phẩm giá và khí phách. Thơ là khí giới của kẻ ngă ngựa. Trước họng súng thơ vẫn hiên ngang. Trước cái chết thơ nói hồi sinh. Trước khổ đau thơ ca hát. Trước mất mát thơ nói đền bù. Trước hận thù thơ nói yêu. Thơ khóc cười theo nhân thế. Thơ là trái tim chưa tha hóa. C̣n thơ - ḷai người chưa thành người máy. Chính v́ thế mà khi cộng sản lùa hằng triệu người Miền Nam vào các quần đảo ngục tù, họ tưởng rằng khối triệu người này sẽ biến thành  vượn người và quên mất tiếng người. Thế nhưng giữa tận cùng của khổ đau, một số rất đông đă đứng dậy- nói đúng ra đă tự vực ḿnh dậy bằng cách làm thơ. Do đó tại hải ngọai đă nở rộ những đóa hoa thơm ngát, đóng góp vào ḍng văn học hiện đại của đất nước, trong đó có một số tập thơ tù mà tôi đă được đọc, được biết xin liệt kê như sau:

 

-Hoa Địa Ngục của Nguyễn Chí Thiện.

-Tĩnh Tọa của Hoàng Liên – Nguyễn Văn Đăi xuất bản năm 1991. Ông là một cựu sinh viên Quốc Gia Hành Chánh, nguyên Đại Biểu Chính Phủ Miền Trung, bị giam tù 18 năm trong hầm tối đào dưới đất từ cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân tại Huế năm 1968.

-Lời Viết Hai Tay (1994), Bài Ca Níu Quan Tài (2001) và Những Dấu Chân Ngang Trên Một Triền Phiếm Định (2002) của Cung Trầm Tưởng mà nhà thơ “Lên Xe Tiễn Em Đi” gọi đây là bộ ba tâm sử thi.

-Thơ Tuyển Tô Thùy Yên (1995) trong đó một nửa sáng tác trước 1975 với hai thơ nổi tiếng là Tàu Đêm và Ta Về.

-Khúc Hát Gia Trung (Thơ Hồi Niệm của Một Tội Đồ) của Nguyễn Sĩ Tế xuất bản năm 1995.

-Tiếng Hờn Chiến Mă (1996) của Song Nhị. Và hai vị nữa là Hà Thượng NhânDiên Nghị làm khá nhiều thơ tù nhưng chưa chính thức xuất bản thành một tuyển tập. Ng̣ai ra lại c̣n có một bài thơ dài Tháng Chạp Buồn với  128 câu buồn xé ruột của một người tù vô danh, hoặc đă chết trong tù, xin trích ra một vài đọan như sau:

 

Tết này con vẫn chưa về được

Chân mỏi c̣n lê nặng kiếp tù

Con nghĩ mà đau muôn nỗi nhớ

Chín năm ḷng bạc những thiên thu

 

Chín năm những tưởng là vô tận

Rồi cũng qua như tiếng rụng rời

Thương nhớ nghe chừng sông biển cạn

Nghe chừng găy những cánh chim ơi

 

Con đi đă mấy miền Nam- Bắc

Đâu cũng th́ đau đớn giống ṇi

Con khóc hồn tan thành nước mắt

Lâu rồi trời đất hết ban mai.

 

Riêng tôi, tôi cũng làm thơ trong tù và xuất bản Thơ Tuyển và Kịch Bản Tổ Ấm Cuối Cùng năm 1987. C̣n các tu sĩ đi tù khá đông đảo sau ngày cộng sản “giải phóng Miền Nam” họ làm thơ tù rất nhiều nhưng xuất bản thành sách th́ tôi chưa thấy -  ngọai trừ một số bài trong Hồi Kư 26 Năm Lưu Đày (2007) của TT. Thích Thiện Minh. Và ngày hôm nay, chúng ta hân hạnh được tiếp nhận tập thơ của người tù nổi tiếng khắp thế giới đó là HT. Thích Quảng Độ vừa được Quê Mẹ tại Pháp xuất bản với lời giới thiệu của Thi Vũ Vơ Văn Ái. Sách dày 230 trang, b́a cứng rất trang nhă. H́nh b́a của Nguyên Hạnh mô phỏng theo bức h́nh tác giả chụp năm 1991 khi bị lưu đày tại Xă Vũ Đ̣ai, Tỉnh Thái B́nh năm 1991. Nếu không có tấm ảnh này, nh́n h́nh b́a không thôi, người ta có cảm tưởng đây là cảnh Đạt Ma Tổ Sư đang ngồi diện bích tại Núi Thiếu Thất với bóng tối chập chùng vây phủ, vạn vật chung quanh đều chết trong tĩnh lặng - ngọai trừ một đốm lửa rất nhỏ tỏa ra từ một que diêm. Đốm lửa là “sự sống” duy nhất có mặt tại đây bởi v́ khuôn mặt của Ḥa Thượng cũng đă đi vào đại định. Thi tập bao gồm 138 bài trong số 400 bài thơ mà tác giả c̣n nhớ nhẩm lại và đă được Thi Vũ phân lọai thành: thơ trong tù, thơ lưu đày, thơ trào phúng và lưu đày.

 

Thành thực mà nói, khi đọc xong lời giới thiệu của Thi Vũ Vơ Văn Ái tôi nghĩ ít ai c̣n có can đảm viết một bài phê b́nh thứ hai bởi v́ kiến thức uyên bác và tài phê b́nh thơ rất “thể nhập”của ông. Chỉ một bài giới thiệu của ông cũng đă đủ rồi. Tuy nhiên tôi lại có một ư nghĩ ngộ ngĩnh khác. Hồi c̣n nhỏ khi sau khi đi coi ci-nê về, tôi thường háo hức t́m cách kể lại cho mấy thằng bạn nghe cuốn phim, dù tài kể chuyện của ḿnh rất dở. Thế nhưng do ḷng bồng bột, do đam mê, do v́ cuốn phim hay quá, phải kể lại cho mấy thằng bạn nghe - may ra mới giải tỏa được nỗi vui sướng trong ḷng. Nếu không th́ “tức chết mất”. Ngày hôm nay cũng thế. Tôi sẽ không làm chuyện phê b́nh mà Thi Vũ Vơ Văn Ái đă làm, mà chỉ kể lại những đọan thơ hay những ǵ tôi nhận thấy ở tập thơ hi hữu này.

 

Tác giả đă khởi đầu tập thơ bằng một cuộc hành tŕnh đi vào cơn ác mộng, cơn ác mộng 30-4:

 

Vào một đêm

Trời không trăng sao

Bóng tối ngập tràn

Tôi bắt đầu cuộc hành tŕnh từ đó

………………………………….

Tôi thấy những nấm mồ nằm la liệt

Giữa những đám cỏ úa vàng.

…………………………………..

Tôi thấy những người mà không ra người

Những giống đười ươi

Nằm trong gông cùm xiềng xích cũi sắt kẹp ḱm

Trên tường,

Tôi thấy những vết máu đào loang lổ

Trông như những con vật không đầu

Hay những h́nh thù ma quái

Mặt ngựa đầu trâu

Phồng mang trợn mắt

Như muốn ăn tươi nuốt sống khách bàng quan

Và từ đâu đây vọng lại

Tiếng kêu cầu cứu thất thanh

Tiếng rên la quằn quại

Và những tiếng kêu “oan”

(Ác Mộng trang 40, 41& 42)

 

Trong cơn ác mộng dài đó, tác giả đă đứng lặng yên trong đêm mưa để nghe tiếng trẻ khóc. Tác giả đă nh́n thấy khổ nghiệp của một em bé đang c̣n nằm trong nôi:

 

Đêm khuya rồi

Trời mưa gió lạnh

Bé thơ ôi

Hăy ngủ ngon đi

Và đừng khóc nữa

……………………….

Bé đang nằm trong nhà tù của Việt Nam anh hùng

Quang vinh độc lập

Bé được chào đời vào những ngày đầu của kỷ nguyên hạnh phúc ấm no

Rồi mai này

Bé sẽ là “cháu ngoan Bác Hồ”

Và được đọc những lời vàng ngọc

“Không có ǵ qúi hơn độc lập tự do”

Bé biết không

Đó là niềm vinh hạnh rất to

Mà hôm nay, v́ c̣n thơ ngây

Bé chưa hiểu nổi

Niềm vinh hạnh ấy sẽ to gấp bội

Khi bé lớn lên với tuổi thanh niên

Cùng với hàng vạn trẻ đồng trang

Bé sẽ được “đảng ta” đào tạo luyện rèn

Để xứng đáng là thanh niên của thế hệ “Hồ Chí Minh” đại

Rồi noi gương” Bác”

Bé sẽ không từ chối ngần ngại

Hiến cả đời ḿnh cho sự nghiệp “giải phóng loài  người

Ôi! Vinh dự làm sao

Và tự hào biết mấy

Một sứ mệnh cao cả thiêng liêng

Thôi nhé

Bé thơ ôi

Đêm khuya lắm rồi

Và mưa vẫn c̣n rơi

Hăy ngủ cho ngon

Và đừng khóc nữa

………………………….

(Đêm Mưa Nghe Trẻ Khóc trang 59 &60)

 

Chỉ có mấy vần thơ nhẹ nhàng như lời mẹ ru con thế thôi mà tác giả đă tuyên một bản án ngàn đời cho tên tội đồ phản quốc Hồ Chí Minh đă dẫn dắt cả dân tộc đi vào cuộc đấu tranh giai cấp, vào cuộc diệt chủng và nô dịch văn hóa với máu xương dài vô tận. Cũng trong cuộc hành tŕnh lưu đày viễn xứ này, “bên cửa sắt của xà-lim tăm tối” (*) tác giả vẫn c̣n nghe thấy tiếng réo gọi của quê hương Miền Nam:

 

Miền Nam ôi!

Tôi thầm gọi

Đây là Miền Nam trong căn pḥng giam chật hẹp âm u

Ngoài kia Miền Nam trong một nhà tù rộng lớn

C̣n nơi nào yên ổn

Xin cho tôi ẩn trốn

Hỡi Miền Nam thân mến của tôi ơi!

(Trời Đă Sáng trang 61&62)

 

Và vẫn thao thức, ưu tư về sinh mệnh của đất nước, dân tộc.

 

Mây chiều ôi

Hăy ngừng trôi

Cho ta nhắn gửi mấy lời

Hỏi người góc bể chân trời bấy lâu:

“Trải bao gió Á mưa Âu

Dặm khách sương pha nửa mái sầu?

Non nước ngh́n trùng mờ mịt

Cùng ai thao thức những đêm thâu?”

C̣n ta nay đă bạc mái đầu

Ngày tháng trơ trơ một khối sầu

Sợ hăi vui mừng như gió thoảng

Nhờ mây nhắn gửi bấy nhiêu câu.

(Gửi Mây trang 152)

 

Bài thơ buồn man mác nói lên tâm trạng của bậc sĩ phu mẫn quốc nhưng nhuốm đượm mùi Thiền qua hai câu:

 

Sợ hăi vui mừng như gió thỏang

Nhờ mây nhắn gửi bấy nhiêu câu.

 

Bài thơ đắc ư này đă được nhạc sĩ Lê Quốc Tấn ở San Francisco phổ nhạc và đă được chính tác giả tŕnh bày và đưa lên hệ thống liên mạng ṭan cầu. Tới đây tôi thấy cũng cần phải mở thêm một dấu ngoặc là: Thơ do một vị sư làm th́ đương nhiên có huơng vị Thiền rồi, tại sao lại nói thơ của tác giả nhuốm đượm mùi Thiền? Tôi đă đọc khá nhiều thơ do các vị sư hoặc do một số cư sĩ làm, mặc dù tựa đề có vẻ Thiền lắm nhưng thực tế đó là thơ “giảng đạo” chứ chẳng có chất Thiền tí nào cả. Tôi đồng ư với Thi Vũ Vơ Văn Ái thơ Thiền Nghĩa là thơ mang màu sắc siêu thóat ẩn tàng sau phong, hoa, tuyết, nguyệt, chim, rừng, trúc, suối…lung linh biểu tượng, hoặc thuần vị chùa chiền, chuông mơ thóat tục…” (Trang 10) Nhưng theo tôi, cần phải nói thêm, thơ có chất Thiền là thơ làm thăng hoa cuộc sống này lên một tầng, làm giảm nhẹ nỗi đau của nhân thế mà tác giả đă sáng tác nó trong một trạng thái an tĩnh tâm hồn, hiu hiu thóat tục mà mùi vị giáo lư Phật Đà chỉ thỏang nhẹ, phải tinh ư hoặc phải có tầm tri thức mới cảm nhận được. Chính v́ cái ư đó mà bài thơ Đi Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp dù thật hay nhưng lại không có phong vị Thiền, trong khi thơ của Phạm Thiên Thư – cũng nói về t́nh yêu lại chan chứa chất Thiền. Thiền ở đây phải hiểu như giáo lư nhà Phật đă thấm sâu vào ḷng đất, vào ḷng người, vào chim muông, cây cỏ, hoa, trúc, núi đồi và cả những đám mây đang lững lờ bay và được diễn đạt bằng những lời thơ, lời văn thật nhẹ nhàng, ngôn ngữ phải thật nhẹ nhàng, tâm ư cũng phải nhẹ nhàng. Nếu đọc hết tập thơ, đi hết cuộc hành tŕnh trong ác mộng cùng tác giả, chúng ta sẽ bắt gặp rất nhiều câu thơ Thiền, phong thái Thiền, tư tưởng Thiền của tác giả.

 

Ráng chiều giăng mắc ven trời

Buồm mây một cánh nhẹ trôi lững lờ

Đi t́m nơi đậu bến mơ

Không gian biển rộng cơi bờ mù khơi

(Thuyền Đời trang 81)

 

Đêm khuya ai gọi giữa tầng cao ?

Cánh gío đưa qua lá xạc xào

Cửa sắt xà lim ngăn gió lại

Sợ làm ta vỡ cuộc chiêm bao

(Ai Gọi trang 84)

 

Nhưng trong những lúc quá ngán ngẩm, tác giả cũng luận bàn về kiếp phù sinh qua hai nhân vật một thời lẫy lừng như Tần Thủy Ḥang và Hạng Vơ (và có lẽ phải thêm cả Hitlervà Saddam Husein nữa).

 

Trên cành lá đọng giọt sương mai

Hạt ngọc lung linh ánh sáng ngời

Cơn gió thỏang qua cành lay động

Đột nhiên tan biến một bóng người

(Vô Thường trang 71)

Và:

Tranh vương tranh bá với công hầu

Nước chảy tràn sông máu đượm màu

Những tưởng cuộc đời bền vững măi

Nào ngờ băi biển hóa nương dâu

(Kiếp Người trang 73)

 

Thuờng thường các tập thơ do các tu sĩ sáng tác đều mang phong thái trang nghiêm, đạo hạnh. Thế nhưng ở đây tác giả đă sáng tác tới 21 bài thơ tự trào, thợ tự vịnh để giễu cợt ḿnh. Đây không phải là lối giễu cợt hay bông đùa của các anh hề trên sân khấu. Sự tự trào ở đây có dụng ư phản tỉnh, phá mê, phá chấp và phá cái tự ngă cao ngạo của chính ḿnh. Tự trào là h́nh thức cởi mở, xuề x̣a, nhân hậu, dung dị và rất người để cho thấy dù ḿnh có giữ một ngôi vị cao như thế nào trong tôn giáo hay chính quyền - th́ vẫn chưa phải là ông Thánh Sống mà vẫn c̣n là một con người. Chính v́ thế mà các cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê v.v..năm xưa vẫn thường sáng tác thơ tự trào, tự vịnh. Chúng ta hăy nghe tác giả trào lộng ḿnh:

 

Quảng Độ là mi mi biết chưa

Vóc dáng xem ra kể cũng vừa

Mắt sáng cằm vuông râu rậm rạp

Trán cao đầu nhọn tóc lưa thưa

Chữ nghĩa lem nhem nhưng biếng học

Tính t́nh nóng nảy vẫn không chừa

Năm nay tuổi tác vừa năm chục

Tù ngục hai lần đă sướng chưa?

(Tự Trào 1 trang 97)

 

Quảng Độ tên mi quê ở đâu?

Thái B́nh, Tiên Hải, Xă Thanh Châu

Dốt đặc cán mai mà lên mặt

Khôn nhà dại chợ lại lên râu

Nh́n đời “tiến bộ” giương mắt ếch

Nghe đạo suy đồi vểnh tai trâu

Thôi về xếp áo đi tập hát

Theo làm nghề xiếc với ông bầu

(Tự trào 2 trang 98)

 

Rồi đôi khi tác giả c̣n bông đùa bằng cách nói chuyện cả với Thần Chết:

 

Xà lim trông hệt cái nhà mồ

Mỗi lần mở cửa tôi ra vô

Thấy như chôn rồi mà vẫn sống

Tử thần tôi sợ con cóc khô!

 

Tử thần nghe vậy bèn sửng cồ

Nửa đêm đập cửa tôi mời : “dô”

Sẵn có thuốc lào phèo mấy khói

Tử thần khóai trá cười hô hô

(Nói Chuyện Với Tử Thần trang 101)

 

Có lẽ đây là bài thơ duy nhất làm tôi cười và tôi nghĩ cả triệu anh em quân-cán-chính Miền Nam đi tù cộng sản cũng sẽ cuời, cười khóai trá v́ chuyện một anh tù mời Thần Chết hút thuốc lào chơi mà Thần Chết lại cũng làm một “bi” và cười hô hố. Dĩ nhiên c̣n nhiều bài thơ tự trào khác mà tôi không thể liệt kê hết ở đây. Xin quư vị, quư bạn t́m đọc, để cười và rồi nước mắt trào dâng từ bao giờ.

 

Trong phần c̣n lại, tác giả mô tả tâm t́nh của ḿnh trong chuyến lưu đày với những bài thơ theo tŕnh tự Qua Đèo Hải Vân, Đêm Ngủ Tại Huế, Qua Cầu Hiền Lương, Qua Đèo Ngang, Qua Cầu Hàm Rồng. Và Ngày Đầu Lưu Đày tại Chùa Long Khánh, Xă Vũ Đ̣ai đă được đám lê dân ”xanh xao và rách rưới”(*) ở đây tiếp đón và báo cáo:

 

Sư cụ trước đây nay đă khuất

Cũng đă từng sản xuất chăn nuôi

Hằng năm góp cho Đảng mấy chục cân hơi (lợn mổ thành thịt)

Và được bằng khen nuôi heo xuất sắc

……………………………………….

Tấm gương sáng ngời sư ông nên theo

Để xứng đáng là nhà sư yêu nước

Trước  đây sư ông đă lầm đường lạc bước

Th́ nay là dịp để cải chính quy tà

Với sự khoan hồng và chiếu cố của Đảng ta

Chúng tôi mong sư ông sẽ mau giác ngộ

(Ngày Đầu Lưu Đày trang 135, 136, 137 & 138)

 

Và đây là cảnh tượng Chùa Long Khánh nơi lưu đày của tác giả:

 

Dưới án quyển kinh sâu cuốn tổ

Trên ṭa tượng Phật nhện giăng tơ

Câu đối mối xông mùn đắp kín

Ḥanh phi mọt đục bụi che mờ

(Vịnh Chùa Long Khánh trang 139)

 

Nhưng cũng chính tại cơi cô đơn, sầu tủi này, tác giả đă có dịp thả hồn chu du khắp cơi thiên hà, vào “Cung Diệu Thắng chiêm bái đức Phật Đà” , tham dự Pháp Hội Hoa Nghiêm, lắng nghe “muôn triệu côn trùng tưng bừng hớn hở đang hát bản trường ca muôn thuở ” (*). Rồi có lúc tác giả miên man rồi đam mê “Uống Cả Trăng “ mà không sợ trăng, ớn lạnh trăng như Hàn Mạc Tử:

 

Đêm thu cùng với bạn hiền

Thảnh thơi ngồi giữa rừng Thiền uống trăng

Ngàn xưa thanh khí lẽ hằng

Tiếng đàn non nước hỏi rằng mấy ai ?

Uống đi ! Đêm hăy c̣n dài

C̣n trăng c̣n uống miệt mài thâu đêm

Ngày mai bể lặng trời yên

Cánh bằng lướt gió băng miền dặm khơi

Tung bay khắp bốn phương trời

Áo cơm trang trải nợ đời cho xong
(Uống Trăng trang 158)

 

Tôi nghĩ cũng nên kết thúc bài giới thiệu ở nơi đây bởi v́ nếu viết nữa th́ c̣n ǵ là “bí mật” của thi tập? Vả lại người giới thiệu cũng không nên chóan hết chỗ mà phải dành một chút suy nghĩ riêng cho người đọc. Đêm qua tôi đă thức dậy vào lúc 1:30 sáng để t́m một kết luận cho bài giới thiệu này. Theo tôi mỗi người Việt nên có một tập Thơ Tù Thích Quảng Độ ở trong nhà, không phải chỉ để trưng bày trên tủ sách, mà là để ǵn giữ một khối t́nh, một chia xẻ, một cảm thông và bảo bọc một tác phẩm văn chương, một h́nh ảnh đang là biểu tượng của cuộc đấu tranh v́ Tự Do Tôn Giáo, Dân Chủ, Tự Do và Nhân Quyền cho Việt Nam. Chúng ta chưa có vũ khí lớn là hằng triệu người xuống đường đấu tranh chống lại bạo quyền th́ hăy ǵn giữ lọai vũ khí nhỏ bé như thế này.

 

Đào Văn B́nh
(
14-4-2007)

 

Cước chú: Dấu (*) là những lời rích dẫn từ thi tập.

Qúy vị, quư bạn muốn có thi tập xin gửi thư và chi phiếu về Quê Mẹ B.P. 63, 94472 Boissy Saint-Léger

Cedex (France) hoặc điện thư về địa chỉ: queme@free.fr

Thi tập không đề giá bán nhưng tôi nghĩ với sách in đẹp như thế giá phải từ $ 25 tới $30 USD.