Nửa
Khuya Đọc Thơ Tù của HT. Quảng
Độ
Đào Văn B́nh
Cơn đại hồng thủy 30-4 kéo tới phá
xập cả đ́nh, chùa, nhà thờ, lăng
miếu và đẩy cả nước vào một ngục
tù khổng chưa từng thấy tại Việt
-Hoa Địa
Ngục của
Nguyễn Chí Thiện.
-Tĩnh Tọa của Hoàng Liên – Nguyễn
Văn Đăi xuất bản năm 1991. Ông là một cựu
sinh viên Quốc Gia Hành Chánh, nguyên Đại Biểu Chính Phủ
Miền Trung, bị giam tù 18 năm trong hầm tối
đào dưới đất từ cuộc tổng công
kích Tết Mậu Thân tại Huế năm 1968.
-Lời Viết
Hai Tay (1994), Bài
Ca Níu Quan Tài (2001) và Những Dấu Chân Ngang Trên Một
Triền Phiếm Định (2002) của Cung Trầm
Tưởng mà nhà thơ “Lên Xe Tiễn Em Đi” gọi
đây là bộ ba tâm sử thi.
-Thơ Tuyển
Tô Thùy Yên (1995)
trong đó một nửa sáng tác trước 1975 với hai
thơ nổi tiếng là Tàu Đêm và Ta Về.
-Khúc
Hát Gia Trung
(Thơ Hồi Niệm của Một Tội Đồ) của
Nguyễn Sĩ Tế xuất bản năm 1995.
-Tiếng Hờn
Chiến Mă (1996)
của Song Nhị. Và hai vị nữa là Hà Thượng Nhân
và Diên
Nghị làm khá nhiều thơ tù nhưng chưa chính
thức xuất bản thành một tuyển tập. Ng̣ai ra
lại c̣n có một bài thơ dài Tháng Chạp Buồn
với 128 câu buồn xé ruột
của một người tù vô danh, hoặc đă chết
trong tù, xin trích ra một vài đọan như sau:
Tết này con vẫn chưa về được
Chân mỏi c̣n lê nặng kiếp tù
Con nghĩ mà đau muôn nỗi nhớ
Chín năm ḷng bạc những thiên thu
Chín năm những tưởng là vô tận
Rồi cũng qua như tiếng rụng rời
Thương nhớ nghe chừng sông biển
cạn
Nghe chừng găy những cánh chim ơi
Con đi đă mấy miền
Đâu cũng th́ đau đớn giống
ṇi
Con khóc hồn tan thành nước mắt
Lâu rồi trời đất hết ban mai.
Riêng
tôi, tôi cũng làm thơ trong tù và xuất bản Thơ Tuyển và Kịch Bản Tổ
Ấm Cuối Cùng năm 1987. C̣n các tu sĩ đi tù khá
đông đảo sau ngày cộng sản “giải phóng Miền
Thành
thực mà nói, khi đọc xong lời giới thiệu của
Thi Vũ Vơ Văn Ái tôi nghĩ ít ai c̣n có can đảm viết
một bài phê b́nh thứ hai bởi v́ kiến thức uyên
bác và tài phê b́nh thơ rất “thể nhập”của ông. Chỉ một bài giới thiệu của ông
cũng đă đủ rồi. Tuy nhiên
tôi lại có một ư nghĩ ngộ ngĩnh khác. Hồi c̣n nhỏ khi sau khi đi coi ci-nê về, tôi
thường háo hức t́m cách kể lại cho mấy thằng
bạn nghe cuốn phim, dù tài kể chuyện của ḿnh rất
dở. Thế nhưng do ḷng bồng bột, do đam
mê, do v́ cuốn phim hay quá, phải kể lại cho mấy
thằng bạn nghe - may ra mới giải tỏa được
nỗi vui sướng trong ḷng. Nếu không
th́ “tức chết mất”. Ngày hôm nay cũng
thế. Tôi sẽ không làm chuyện phê b́nh mà Thi Vũ
Vơ Văn Ái đă làm, mà chỉ kể lại những đọan
thơ hay những ǵ tôi nhận thấy ở tập
thơ hi hữu này.
Tác giả đă khởi đầu tập thơ bằng
một cuộc hành tŕnh đi vào cơn ác mộng, cơn ác
mộng 30-4:
Vào một đêm
Trời không trăng sao
Bóng tối ngập tràn
Tôi bắt đầu cuộc hành tŕnh từ
đó
………………………………….
Tôi thấy những nấm mồ nằm la
liệt
Giữa những đám cỏ úa
vàng.
…………………………………..
Tôi thấy những người mà không ra
người
Những giống đười ươi
Nằm trong gông cùm xiềng xích cũi sắt
kẹp ḱm
Trên tường,
Tôi thấy những vết máu đào loang lổ
Trông như những con vật không đầu
Hay những h́nh thù ma quái
Mặt ngựa đầu trâu
Phồng mang trợn mắt
Như muốn ăn
tươi nuốt sống khách bàng quan
Và từ đâu đây vọng lại
Tiếng kêu cầu cứu thất thanh
Tiếng rên la quằn quại
Và những tiếng kêu “oan”
(Ác Mộng trang
40, 41& 42)
Trong cơn ác mộng
dài đó, tác giả đă đứng lặng yên trong
đêm mưa để nghe tiếng trẻ khóc. Tác giả
đă nh́n thấy khổ nghiệp của một
em bé đang c̣n nằm trong nôi:
Đêm khuya rồi
Trời mưa gió lạnh
Bé thơ ôi
Hăy ngủ ngon đi
Và đừng khóc nữa
……………………….
Bé đang nằm trong nhà tù của Việt
Quang vinh độc lập
Bé được chào đời vào những
ngày đầu của kỷ nguyên hạnh phúc ấm no
Rồi mai này
Bé sẽ là “cháu ngoan Bác Hồ”
Và được đọc những lời
vàng ngọc
“Không có ǵ qúi hơn độc lập tự
do”
Bé biết không
Đó là niềm vinh hạnh rất to
Mà hôm nay, v́ c̣n thơ ngây
Bé chưa hiểu nổi
Niềm vinh hạnh ấy sẽ to gấp bội
Khi bé lớn lên với tuổi thanh niên
Cùng với hàng vạn trẻ đồng
trang
Bé sẽ được “đảng ta” đào
tạo luyện rèn
Để xứng đáng là thanh niên của
thế hệ “Hồ Chí Minh” vĩ đại
Rồi noi gương” Bác”
Bé sẽ không từ chối ngần ngại
Hiến cả đời ḿnh cho sự nghiệp
“giải phóng loài người”
Ôi! Vinh dự làm sao
Và tự hào biết mấy
Một sứ mệnh cao cả thiêng liêng
Thôi nhé
Bé thơ ôi
Đêm khuya lắm rồi
Và mưa vẫn c̣n rơi
Hăy ngủ cho ngon
Và đừng khóc nữa
………………………….
(Đêm Mưa
Nghe Trẻ Khóc trang 59 &60)
Chỉ có mấy
vần thơ nhẹ nhàng như lời mẹ ru con thế
thôi mà tác giả đă tuyên một bản án ngàn đời
cho tên tội đồ phản quốc Hồ Chí Minh đă
dẫn dắt cả dân tộc đi vào cuộc đấu
tranh giai cấp, vào cuộc diệt chủng và nô dịch
văn hóa với máu xương dài vô tận. Cũng trong cuộc
hành tŕnh lưu đày viễn xứ này, “bên cửa sắt của xà-lim tăm tối” (*)
tác giả vẫn c̣n nghe thấy tiếng réo gọi của
quê hương Miền
Miền
Tôi thầm gọi
Đây là Miền
Ngoài kia Miền
C̣n nơi nào yên ổn
Xin cho tôi ẩn trốn
Hỡi Miền
(Trời Đă
Sáng trang 61&62)
Và
vẫn thao thức, ưu tư về sinh mệnh của
đất nước, dân tộc.
Mây chiều ôi
Hăy ngừng trôi
Cho ta nhắn gửi mấy lời
Hỏi người góc bể chân trời bấy
lâu:
“Trải bao gió Á mưa Âu
Dặm khách sương pha
nửa mái sầu?
Non nước ngh́n trùng mờ mịt
Cùng ai thao thức những
đêm thâu?”
C̣n ta nay đă bạc mái đầu
Ngày tháng trơ trơ một khối sầu
Sợ hăi vui mừng như gió thoảng
Nhờ mây nhắn gửi bấy
nhiêu câu.
(Gửi Mây trang
152)
Bài thơ buồn
man mác nói lên tâm trạng của bậc sĩ phu mẫn quốc
nhưng nhuốm đượm mùi Thiền qua hai câu:
Sợ hăi vui mừng như gió thỏang
Nhờ mây nhắn gửi bấy
nhiêu câu.
Bài
thơ đắc ư này đă được nhạc sĩ
Lê Quốc Tấn ở
Ráng chiều giăng mắc ven trời
Buồm mây một cánh nhẹ trôi lững lờ
Đi t́m nơi đậu bến mơ
Không gian biển rộng cơi bờ mù khơi
(Thuyền Đời
trang 81)
Đêm khuya ai gọi giữa tầng cao ?
Cánh gío đưa qua lá xạc xào
Cửa sắt xà lim ngăn gió lại
Sợ làm ta vỡ cuộc chiêm bao
(Ai Gọi trang
84)
Nhưng
trong những lúc quá ngán ngẩm, tác giả cũng luận
bàn về kiếp phù sinh qua hai nhân vật một thời lẫy
lừng như Tần Thủy Ḥang và Hạng Vơ (và có lẽ
phải thêm cả Hitlervà Saddam Husein nữa).
Trên cành lá đọng giọt sương mai
Hạt ngọc lung linh ánh sáng ngời
Cơn gió thỏang qua cành lay động
Đột nhiên tan biến một bóng người
(Vô Thường
trang 71)
Và:
Tranh vương tranh bá với công hầu
Nước chảy tràn sông máu đượm
màu
Những tưởng cuộc đời bền
vững măi
Nào ngờ băi biển hóa nương dâu
(Kiếp Người
trang 73)
Thuờng
thường các tập thơ do các tu sĩ sáng tác đều
mang phong thái trang nghiêm, đạo hạnh. Thế nhưng ở
đây tác giả đă sáng tác tới 21 bài thơ tự
trào, thợ tự vịnh để giễu cợt ḿnh.
Đây không phải là lối giễu cợt hay bông đùa của
các anh hề trên sân khấu. Sự tự trào ở
đây có dụng ư phản tỉnh, phá mê, phá chấp và phá
cái tự ngă cao ngạo của chính ḿnh. Tự trào là
h́nh thức cởi mở, xuề x̣a, nhân hậu, dung dị
và rất người để cho thấy dù ḿnh có giữ
một ngôi vị cao như thế nào trong tôn giáo hay chính quyền
- th́ vẫn chưa phải là ông Thánh Sống mà vẫn c̣n
là một con người. Chính v́ thế mà các cụ Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê v.v..năm xưa vẫn thường sáng tác
thơ tự trào, tự vịnh. Chúng ta hăy nghe tác giả
trào lộng ḿnh:
Quảng Độ là mi mi biết chưa
Vóc dáng xem ra kể cũng vừa
Mắt sáng cằm vuông râu rậm rạp
Trán cao đầu nhọn tóc lưa thưa
Chữ nghĩa lem nhem nhưng biếng học
Tính t́nh nóng nảy vẫn không chừa
Năm nay tuổi tác vừa năm chục
Tù ngục hai lần đă sướng
chưa?
(Tự Trào 1
trang 97)
Quảng Độ tên mi quê ở
đâu?
Thái B́nh, Tiên Hải, Xă Thanh Châu
Dốt đặc cán mai mà lên mặt
Khôn nhà dại chợ lại lên râu
Nh́n đời “tiến bộ” giương mắt
ếch
Nghe đạo suy đồi vểnh tai trâu
Thôi về xếp áo đi tập hát
Theo làm nghề xiếc với ông bầu
(Tự trào 2
trang 98)
Rồi đôi
khi tác giả c̣n bông đùa bằng cách nói chuyện cả với
Thần Chết:
Xà lim trông hệt cái nhà mồ
Mỗi lần mở cửa tôi ra vô
Thấy như chôn rồi mà vẫn sống
Tử thần tôi sợ con cóc khô!
Tử thần nghe vậy bèn sửng cồ
Nửa đêm đập cửa tôi mời : “dô”
Sẵn có thuốc lào phèo mấy khói
Tử thần khóai trá cười hô hô
(Nói Chuyện Với
Tử Thần trang 101)
Có lẽ đây
là bài thơ duy nhất làm tôi cười và tôi nghĩ cả
triệu anh em quân-cán-chính Miền Nam đi tù cộng sản
cũng sẽ cuời, cười khóai trá v́ chuyện một
anh tù mời Thần Chết hút thuốc lào chơi mà Thần
Chết lại cũng làm một “bi” và cười hô hố.
Dĩ nhiên c̣n nhiều bài thơ tự trào khác
mà tôi không thể liệt kê hết ở đây. Xin quư vị, quư bạn t́m đọc, để
cười và rồi nước mắt trào dâng từ bao
giờ.
Trong
phần c̣n lại, tác giả mô tả tâm t́nh của ḿnh
trong chuyến lưu đày với những bài thơ theo
tŕnh tự Qua Đèo Hải Vân, Đêm Ngủ Tại Huế,
Qua Cầu Hiền Lương, Qua Đèo Ngang, Qua Cầu Hàm
Rồng. Và Ngày Đầu Lưu Đày tại Chùa Long Khánh,
Xă Vũ Đ̣ai đă được đám lê dân ”xanh xao và rách
rưới”(*) ở đây tiếp đón và báo cáo:
“Sư cụ trước đây
nay đă khuất
Cũng đă từng sản xuất chăn
nuôi
Hằng năm góp cho Đảng mấy chục
cân hơi (lợn mổ thành thịt)
Và được bằng khen nuôi heo xuất
sắc”
……………………………………….
“Tấm gương sáng ngời
sư ông nên theo
Để xứng đáng là nhà sư yêu
nước
Trước đây
sư ông đă lầm đường lạc bước
Th́ nay là dịp để cải chính quy tà
Với sự khoan hồng và chiếu cố
của Đảng ta
Chúng tôi mong sư ông sẽ mau giác ngộ “
(Ngày Đầu
Lưu Đày trang 135, 136, 137 & 138)
Và đây là cảnh
tượng Chùa Long Khánh nơi lưu đày của tác giả:
Dưới án quyển kinh
sâu cuốn tổ
Trên ṭa tượng Phật nhện giăng
tơ
Câu đối mối xông mùn đắp kín
Ḥanh phi mọt đục bụi che mờ
(Vịnh Chùa
Long Khánh trang 139)
Nhưng cũng
chính tại cơi cô đơn, sầu tủi này, tác giả
đă có dịp thả hồn chu du khắp cơi thiên hà, vào “Cung Diệu Thắng chiêm bái đức
Phật Đà” , tham dự Pháp Hội Hoa Nghiêm, lắng
nghe “muôn triệu côn trùng
tưng bừng hớn hở đang hát bản trường
ca muôn thuở ” (*). Rồi có lúc tác giả miên man rồi
đam mê “Uống Cả
Trăng “ mà không sợ trăng, ớn lạnh trăng
như Hàn Mạc Tử:
Đêm thu cùng với bạn
hiền
Thảnh thơi ngồi giữa rừng Thiền
uống trăng
Ngàn xưa thanh khí lẽ hằng
Tiếng đàn non nước hỏi rằng
mấy ai ?
Uống đi ! Đêm hăy
c̣n dài
C̣n trăng c̣n uống miệt mài thâu đêm
Ngày mai bể lặng trời yên
Cánh bằng lướt gió băng miền dặm
khơi
Tung bay khắp bốn phương trời
Áo cơm trang trải nợ
đời cho xong
(Uống Trăng
trang 158)
Tôi nghĩ cũng nên kết thúc
bài giới thiệu ở nơi đây bởi v́ nếu viết
nữa th́ c̣n ǵ là “bí mật” của thi tập? Vả lại
người giới thiệu cũng không nên chóan hết chỗ
mà phải dành một chút suy nghĩ riêng cho người
đọc. Đêm qua tôi đă thức dậy vào lúc
Đào Văn B́nh
(
Cước chú: Dấu (*) là những lời rích
dẫn từ thi tập.
Qúy vị, quư bạn muốn có thi tập xin
gửi thư và chi phiếu về Quê Mẹ
B.P. 63, 94472 Boissy Saint-Léger
Cedex (France) hoặc điện thư
về địa chỉ: queme@free.fr
Thi tập không đề giá bán
nhưng tôi nghĩ với sách in đẹp như thế
giá phải từ $ 25 tới $30 USD.