Bài học nhiều giá trị nhưng cũng lắm xót sa:

Nam Việt Nam : Ngày 30 – 4 - 1975

                                     

                                                                   Phan Đức Minh

 

  Lănh tụ Cộng sản

  quốc tế Lenine      

 

Ngày kỷ niệm đau buồn 30 tháng 4 lại tới. Nói đến chuyện đó, trước hết ta nên nhớ lại câu nói hàm chứa cả một âm mưu, tham vọng của Lenine, cha đẻ của cách mạng tháng 10 ở Nga, của Đệ Tam Quốc Tế cộng sản, sư phụ của Hồ Chí Minh, sư tổ của phong trào cộng sản thế giới     “ … First, we will take eastern Europe, then the masses of Asia, then we will encircle the United States which will be the last bastion of capitalism. We will not have to attack. It will fall into our hands like an overripe fruit …”   (The Death Of A Nation - John A. Stormer - 1978 .- Liberty Bell Press,. Florissant, Missouri - U.S.A - Page 14). Tư tưởng, tham vọng này từ lâu đă sai bét hết cả rồi!

 

      Nhà lănh tụ được coi là vĩ đại nhất cuả phong trào cộng sản quốc tế này, trước đó hơn nửa thế kỷ, đă từng vạch ra một chiến lược để đánh thắng Hoa Kỳ mà không cần phải tấn công trực tiếp vào Hoa Kỳ, chỉ cần đem phong trào cộng sản đến thống trị Đông Âu, rồi thống trị khối nhân dân khổng lồ ở Á Châu , sau đó bao vây Hoa Kỳ, thành lũy cuối cùng của chế độ tư bản. Hoa Kỳ sẽ như trái cây chín nẫu, rơi vào tay cộng sản. Chủ quan ghê gớm thật!   

             

Sau vụ tấn công khủng bố kinh hoàng 11 tháng 9 -2001, đánh thẳng vào nước Mỹ, tháng 2 -2002, một cuộc thăm ḍ ư kiến dân Mỹ một cách đại quy mô: Tại sao nước Mỹ hùng cường, nhân đạo, từng giúp đỡ biết bao nhiêu quốc gia, dân tộc khi họ gặp cơn khốn khó, thoát cảnh bom đạn, máu xương, cơ cực, lầm than, đói khổ vv… mà sao nước Mỹ lại có quá nhiều kẻ thù ghét, không có nhiều bạn tốt, ít kẻ biết ơn chân thành, nước Mỹ lại phải nhận lănh 2 trận tấn công khủng khiếp đánh vào chính ngay nước Mỹ, xưa nay vốn được coi là bất khả xâm phạm : Trung Tâm Thương Mại Thế Giới (World Trade Center) hoàn toàn xụp đổ, gây chết chóc cho mấy ngàn người, c̣n số bị thương, kẻ đau khổ, mất mát người thân và những trụ cột của gia đ́nh th́ phải hàng chục ngàn. Rồi Trung Tâm chỉ huy quân lực Hải-Lục-Không Quân Mỹ (Central Headquarters) tức là Ngũ Giác Đài (Pentagon) ngay tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn bị thiệt hại nặng về vật chất, tinh thần, nhân vật quân sự, uy tín cuả 1 Siêu Cường Quốc (Superpower). Tất cả đă gây ra sự tổn thất nặng nề về nhiều mặt, không những cho nước Mỹ mà cho cả thế giới nữa?

 

Câu trả lời cuả 78% dân Mỹ thuộc nhiều tầng lớp xă hội khác nhau, được hỏi ư kiến đại để là : Nước Mỹ đă phạm nhiều sai lầm lớn lao, chủ quan, dựa vào sức mạnh kinh tế và quân sự của ḿnh để áp đặt, ép buộc nhiều quốc gia khác phải đi theo kiểu cách của ḿnh, thiếu chung thủy với đồng minh, phản bội bạn bè nhược tiểu một cách dễ dàng vô tội vạ, ít tôn trọng tổ chức Liên Hiệp Quốc cũng như các quốc gia thành viên, nghĩa là những sai lầm cuả nước Mỹ trong những vấn đề nằm trong các sách-lược đối ngoại  (Foreign Policies & Strategies).

Có ai ngờ là nước Mỹ bị loại ra khỏi Uỷ Ban Nhân Quyền và Uỷ Ban Bài Trừ Ma Túy của Liên Hiệp Quốc trong năm 2001, là những tổ chức do chính nước Mỹ chủ động lập ra để làm lợi khí gây áp lực trên các quốc gia khác? Chuyện lạ nhưng có thực! Lúc đó, Mỹ có đem vấn đề Nhân Quyền ra để gây áp lực với quốc gia khác, thí dụ Việt Nam th́ Hà Nội lại bảo «Này! Về nhà coi lại vấn đề nhân quyền của chính anh đi đă ! Anh bị đuổi ra khỏi tổ chức nhân quyền thế giới rồi đấy nghe!” 

 

Năm 2002, trong dịp Lễ kỷ niệm 77 năm thành lập Học Viện Quân sự Whampoa, nơi huấn luyện Sĩ Quan cho cả Quốc Dân Đảng và quân đội Giải Phóng Nhân Dân (cộng sản) trước khi cuộc nội chiến bắt đầu. 20 Tướng Lănh, cả về hưu và đang tại chức cuả Quân Lực Đài Loan đă nâng ly trao đổi tại nhà khách sang trọng Diaoyutai Guest House tại Bắc Kinh, với Phó Thủ Tướng Chu Dung Cơ và những Tướng Lănh hàng đầu của quân đội cộng sản Trung Quốc, Tướng Đài Loan Wang Wu-Mon 65 tuổi đă nói “ Nếu Đảng cộng sản tiếp tục thay đổi th́ sẽ không có chiến tranh, nhưng là sự thống nhất”. Một số Tướng Lănh quân đội Đài Loan đă trả lời phỏng vấn cuả Báo Chí là : Chúng tôi liên minh với Mỹ, một siêu cường quốc đứng đầu thế giới ngày nay là một điều tốt, nhưng kinh nghiệm lịch sử thế giới dậy cho chúng tôi thấy rằng: phải luôn luôn cảnh giác, đề pḥng khi nước Mỹ v́ quyền lợi cuả chính nước Mỹ mà bỏ rơi chúng tôi th́ tự chúng tôi phải lo liệu lấy để tránh những thiệt hại to lớn nhất khi phải đối đầu quân sự với Trung Hoa Lục Địa …  Một Tướng Lănh Đài Loan khác nói “ Hoa Kỳ đă một thời đóng vai tṛ tích cực bảo vệ Đài Loan chống Trung Quốc bằng mọi giá, nhưng sự gắn bó kinh doanh giữa giới tài phiệt Mỹ và Trung Quốc đang tăng lên gấp bội theo đà tiến rất mạnh với sự gia nhập của Trung Quốc vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới  (WTO - World Trade Organization) bất kể t́nh trạng Trung Quốc vi phạm nhân quyền một cách dữ dội thô bạo,và Trung Quốc c̣n là bạn đường có tầm mức quan trọng cuả Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố quốc tế “ th́ chúng tôi phải cảnh giác, coi chừng kẻo bị người ta “ lật ngửa lá bài “ trao đổi lấy một món hàng quan trọng hơn lúc nào không biết. Một Tướng Lănh Đài Loan khác nói «Chúng tôi không dám coi Hoa Kỳ là người bạn tin cậy lâu dài. Đây là cuộc chiến cuả chúng tôi. Nếu không thắng được Hoa Lục th́ tốt nhất là t́m cách gia nhập vào nó một cách êm đẹp.”      

Thời gian gần đây v́ hao người, tốn của, mang tai mang tiếng với nhiều quốc gia đồng minh, bè bạn, cũng như đông đảo dân chúng trong nước về cuộc chiến tranh Iraq, thành quả đạt được không cân xứng với cái vốn bỏ ra, lại c̣n phải trải rộng quân lực trên khắp các “ Tiền đồn chiến lược – Strategic advanced posts “ ngăn chặn sự bành trướng thế lực rơ ràng của Trung Quốc, ngăn chặn sự cố gắng cạnh tranh phục hồi vị trí siêu cường của Nga, lo tiêu diệt phong trào khủng bố quốc tế, quân số thiếu hụt, sự tuyển quân bị khó khăn (v́ thanh niên ngán cuộc chiến tranh cù cưa, không chiến tuyến ở Iraq hiện nay, giông giống khá nhiều lối đánh nhau ở Nam Việt Nam) cho nên tiếng nói có thẩm quyền của Mỹ đă vài phen nhắn nhe với giới lănh đạo, quân dân Đài Loan : hăy tự lo tối tân hóa quân đội, trang bị vũ khí hiện đại nhất (mua của ta tốt hơn là mua của Nga, Pháp, Đức ...) đề pḥng Trung Quốc tạo thời cơ bất thần tấn công ḥn đảo Đài Loan xưa nay vốn được coi là một phần lănh thổ của Trung Quốc. Chuyện đó trước sau rồi cũng phải thống nhất về một mối, bằng phương cách ḥa b́nh không được th́ bằng vũ lực cũng là điều hợp với tư tưởng Mao – Trạch – Đông “Ḥa b́nh, thống nhất ở đầu mũi súng”. Hiện nay Trung Quốc là cường quốc nguyên tử, kinh tế phát triển với tốc độ mạnh nhất thế giới, quân đội hiện dịch tác chiến (Combattant Active Forces) trang bị tối tân, tinh thần cuồng tín và quân số đông đảo bằng tổng số quân đội nhiều cường quốc cộng lại, chưa kể chủ lực quân của từng địa phương, mỗi Tỉnh có từ 2 đến 3 trung Đoàn (Regiment) tùy theo tầm quan trọng về vị trí, lănh thổ. Hải và Không Quân, Pháo Binh, Thiết Giáp không c̣n giống như thời chiến tranh Triều Tiên  (1950 – 1953), 700 phi đạn ngày đêm sẵn sàng chĩa vào mục tiêu Đài Loan, chỉ chờ lệnh là phóng đi ào ạt ...Nếu Đài Loan ho he lên tiếng chuyện ly khai, độc lập là Trung Cộng sẽ lập tức dập liền. Anh nào can thiệp, xía vô chuyện nội bộ của nó là bán đảo Triều Tiên lập tức có Hải-Lục-Không quân, thiết giáp của Trung Cộng sẽ cùng với quân lực Bắc Hàn (cả hai cùng có vũ khí nguyên tử và cuồng tín, dù có hi sinh hàng trăm ngàn quân để đạt chiến thắng cũng coi như chuyện vặt) tràn qua vĩ tuyến 38 như hồi năm 1950, nhưng sẽ không có chuyện quân Liên Hiệp Quốc dính vô đó. Ai cũng biết rồi... Rồi chiến tranh sẽ bùng lên ở nhiều nơi khác và vũ khí nguyên tử cỡ nhỏ, phi đạn chống phi đạn sẽ có cơ hội để thử nghiệm mức độ chính xác cũng như hiệu quả thực sự. 

Ngày 12 tháng 4 – 1975, thủ đô Nam-Vang của nước láng giềng, Cambodia, sắp thất thủ và Sứ Quán Hoa Kỳ đang vội vàng thoát ra khỏi Nam-Vang th́ Thủ Tướng của nước này đă gửi khẩn cấp cho Đại Sứ Mỹ 1 điện văn “ ... Tôi chân thành cảm ơn Ngài đă gửi thư và dành chỗ cho tôi để đến một nơi tự do, an toàn. Tôi rất tiếc không thể ra đi trong những điều kiện hèn nhát như vậy. Tôi chưa bao giờ dám nghĩ rằng có lúc Ngài và nước Mỹ lại ra đi hốt hoảng, bỏ lại những người bạn đồng minh ở nơi này mà không cần biết họ sống chết ra sao. Ngài và nước Mỹ đă bỏ mặc chúng tôi không như lúc ban đầu....Tôi đă mắc một sai lầm trọng đại trong đời là đă đặt ḷng tin của ḿnh vào những người Mỹ.” Ông Thủ Tướng Sirak Matak can trường này đă ở lại đến phút cuối cùng của đất nước, và sau đó bị Khmer đỏ giết chết.

 

   Chiến tranh vùng Vịnh 1991, Quân đội xâm lăng của Hung Thần Saddam Hussein bị quân dội Hoa Kỳ, trong chiến dịch “Băo Sa Mạc – Desert Storms “dưới quyền Tư Lệnh của Tướng 4 sao Norman Schwarzkopf, đánh cho tan tác, rách như cái mền, phải bỏ mộng ciếm đóng Kuweit với những mỏ dầu quan trọng. Nếu gặp “Ông số 1” ngày nay th́ kể như bất cần trời đất, Ổng sẽ xóa sổ, bắt Saddam Hussein ngay từ hồi đó. Nhưng “Ông Bush Cụ” nghỉ chơi, giao và yểm trợ cho các lực lượng chống đối và dân Kurds làm nốt nhiệm vụ. Công việc không xong, phe ta cũng lửng lơ bỏ rơi các lực lượng chống Saddam Hussein để cho tay Hung Thần này được dịp trả thù, đánh giết hết bất cứ đứa nào chống nó, giết luôn cả các Tướng Lănh không trung thành, có dấu hiệu chống nó, giết cả Tướng Lănh là con rể nó chạy trốn sang nước láng giềng, nó dụ dỗ gọi về, bảo là tha tội, cho phục hồi chức quyền, nhưng rồi nó cũng cho giết luôn ngay sau khi trở về tŕnh diện. Đem con bỏ chợ, bao nhiêu tội vạ, chết chóc, máu xương đổ hết lên đầu dân Kurds, các lực lượng chống đối, người dân thuộc giáo phái không phục tùng triệt để tay Hung Thần Saddam. Chiến thắng “ Băo sa-Mạc 1991 “ đă làm cho danh dự của Siêu Cường Hoa Kỳ được khôi phục lại phần nào sau thất bại đau đớn đầu tiên của Lịch Sử Siêu Cường Huê kỳ tại chiến trường Việt Nam. Tuy nhiên cuộc chiến Iraq năm 1991 (thắng chớp nhoáng bằng chiến tranh quy ước – Conventional War - là sở trường của quân đội Hoa Kỳ hùng mạnh, trang bị tối tân nhất hoàn vũ, có chính nghĩa (just cause) cho cuộc chiến, Saddam Hussein xâm lăng Kuweit, chiếm các nguồn dầu mỏ có liên hệ đến quyền lợi của cả thế giới, Liên Hiệp Quốc Ô Kê cho đánh. Cuộc chiến đó hoàn toàn khác hẳn cuộc chiến Iraq 2003 đến ngày nay về nhiều mặt : thiếu chính nghĩa, những lư do để đánh nó t́m hoài không ra, những người lănh đạo cuộc chiến không “ thuộc bài học, không biết tí ti con kiến nào về cuộc chiến Việt Nam trước kia” cho nên một “ Đại Siêu Cường Quốc “ dốc toàn lực hùng hậu nhất loài người để đánh một quốc gia c̣ con, đă bị thương nặng từ lâu, sức chống cự chẳng có bao nhiêu, chiếm xong Thủ Đổ, lật đổ chính quyền, nắm cổ Saddam Hussein nhốt vào tù, lập chính quyền mới, bầu cử này nọ đàng hoàng mà “ chúng nó “ vẫn đánh, người Hồi Giáo từ những quốc gia khác vẫn kéo đến đánh hung hăn, đánh ngay tại Thủ Đô và các thành phố phe ta đă chiếm đóng và kiểm soát cả mấy năm nay. Chưa chắc chắn đến bao giờ th́ quân đội phe ta mới rút đi được hết, để giao lại thực quyền trọn vẹn cho chính quyền mới do phe ta yểm trợ, mà cái quốc gia đă và c̣n đang tan hoang, chết người hàng ngày đó được yên ổn không đánh nhau loạn xà ngầu liên tu, bất tận để giành nhau quyền lực, quyền lợi, vị trí thượng tôn của Giáo Phái, làm chủ các mỏ dầu như nhiều vùng đất trên thế giới này.

 

Ḥa Thượng Thích Quảng Độ, nhân vật số 2 của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, người được trao giải Nhân Quyền Quốc Tế 2006, Ứng Viên Giải Nobel Ḥa b́nh 2007, sau Hội Nghị APEC tháng 11 - 2006 tại Hà nội, đă lên tiếng tố cáo chính phủ Bush đă phản bội các phong trào tranh đấu v́ Dân Chủ Tự Do cho Việt Nam, khi chính phủ của Ông này rút tên Chính quyền cộng sản việt Nam ra khỏi danh sách các quốc gia đàn áp tôn giáo để làm món “ quà tặng APEC “ cho chính quyềøn cộng sản đang đàn áp tôn giáo cũng như các phong trào, nhân vật tranh đấu v́ Dân Chủ, Tự Do cho Việt Nam một cách dữ dội, dă man và tàn bạo. Lănh đạo chính quyền Mỹ đă mau quên lời tuyên bố lời của chính Ông cho cả thế giới cùng nghe : Các bạn tranh đấu cho Dân Chủ, Tự Do hăy vững tâm, các bạn ở đâu là luôn luôn có chúng tôi ở bên cạnh các bạn...

                                               

Biết như vậy rồi, bây giờ chúng ta bắt đầu nh́n lại những biến cố đă xẩy ra trên đất nước ḿnh: ngày 30 – 4 – 1975, để rồi cùng nhau dưạ vào kinh nghiệm lịch sử, vào trào lưu tiến hoá nhân loại, cầu xin các Đấng thiêng liêng phù trợ mà t́m ra một phương cách tự cứu lấy bản thân, cứu lấy dân tộc, quê hương, đất nước cuả ḿnh.    

 

* Ngày 6 - 1 - 1975 : Tỉnh Phước Long và Thị Xă Phước B́nh, cách Sài G̣n 60 dặm về phiá Bắc, rơi vào tay quân cộng sản Bắc Việt. Sau vụ “Mùa Hè đỏ lửa” ở vùng địa đầu giới tuyến Quảng Trị, năm 1972 th́ Phước B́nh là Thị Trấn đầu tiên của Nam Việt Nam bị quân cộng sản đánh chiếm. Không Quân Việt Nam Cộng Hoà thiệt hại 20 máy bay trong công cuộc bảo vệ Tỉnh Phước Long. Nhiều máy bay bị bắn hạ bằng hoả tiễn SA-7 của Liên Sô (The South Vietnamese Air Force loses 20 planes defending the province, many to SA-7 missiles made by the Soviet Union).

 

 Sự thiếu phản ứng quân sự của Hoa Kỳ càng xúi giục cộng sản làm tới v́ các chiến lược gia của cộng sản biết rằng đă đến lúc Hoa Kỳ phải rời bỏ Việt Nam. Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam Lê Duẫn và Bộ Chính Trị của Đảng cộng sản quyết định tăng cường các cuộc tấn công trên toàn lănh thổ Nam Việt Nam để phát động một cuộc Tổng nổi dậy vào năm 1976. Cộng sản chỉ dám mong điều đó vào năm 1976 mà thôi.Ngày 28-1-1975 : Tổng Thống Hoa Kỳ, Gerald Ford , yêu cầu Quốc Hội tăng thêm quân viện cho Nam Việt Nam và Kampuchia với ngân khoản 522 triệu Mỹ Kim v́ lúc này Tổng Thống Ford được biết quân cộng sản Bắc việt đă có mặt tại Nam Việt Nam tới mức 289.000 người. Xe tăng, trọng pháo, hoả lực pḥng không, do Liên Sô và Trung Quốc chi viện rất hùng hậu. Để giữ vững “Một tiền đồn chống cộng” ở Đông Nam Á Châu th́ ngân khoản 522 triệu đô la có là bao? Thế mà cũng không xong. Người ta đă muốn bỏ đi rồi. 

* Ngày 5-2-1975 : Đại Tướng Bắc Việt Văn Tiến Dũng vào Nam để chỉ huy quân đội cộng sản.  

* Ngày 10-3-1975 : Quân Bắc Việt, với những Sư Đoàn thiện chiến , phương tiện chiến tranh hiện đại cuả Liên Sô và Trung Quốc , tấn công Ban Mê Thuột từ ngày 10-3. Ba ngày sau, quân cộng sản tràn ngập thị trấn này, trong khi những trận đánh lớn khác bùng nổ trên mặt trận Cao Nguyên Trung Phần. 

 

* Ngày 14 - 3 - 1975 : Sau khi họp bàn với một số Tướng Lănh và nhân vật thân cận (?), Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút quân, bỏ vùng cao nguyên Trung Phần và các Tỉnh phiá Bắc của Nam Việt Nam. Các Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn 2, Phạm Văn Phú, và Quân Đoàn I, Ngô Quang Trưởng, ngỡ ngàng, sửng sốt, không biết tại sao lại bỏ những vùng đất quan trọng, cửa ngơ, quyết định sự sống chết của Nam Việt Nam vào lúc này, chưa đánh nhau chi cả, trong khi các lực lượng chiến đấu của 2 Quân Đoàn (Army Corps) Việt Nam Cộng Hoà rất hùng mạnh, sẵn sàng đọ sức với quân đội cộng sản. Mất Ban Mê Thuột đâu có nghiă là phải mất luôn cả Quân Khu I và Quân Khu 2! Ông Thiệu làm như thế để gây áp lực với chính phủ Mỹ: phải quyết tâm tăng cường viện trợ mọi mặt cho Nam Việt Nam, nếu không th́ “Tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á Châu cuả Mỹ “ là Nam Việt Nam sẽ xụp  đổ. Ông Thiệu khờ khạo quá trời quá đất ù! Tại sao? - Bởi v́ người Mỹ đă t́m cách tháo lui khỏi cái “ Vũng lầy Việt Nam” để ra đi một cách ít phũ phàng, ít mất mặt chừng nào hay chừng đó , sau khi ông Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của Tổng Thống Mỹ, Henry Kissinger đă cố dọn đường, mở lối cho Tổng Thống Richard Nixon sang Trung Cộng năn nỉ với Mao Trạch Đông vào năm 1972 , qua sự giàn xếp của Tổng Thống Hồi Quốc Yahya Khan. Mao Trạch Đông với sức mạnh đàn anh, từng viện trợ, cố vấn tích cực cho cộng sản Hà Nội, đă ép cộng sản Hà Nội bớt ương ngạnh, ngưng chơi trội và bắt bí Mỹ ở Hội Nghị Paris, diễn ra tại Salle de Conférence Kléber.

 

Trong vụ này, Mỹ được tí chút lợi lộc là kư được cái “Hiệp Định Ngưng Bắn - Agreement of Cease-Fire” để tháo lui có văn bản đàng hoàng, mà phe cộng sản coi như mớ giấy lộn, chẳng có giá trị ǵ cả, nhưng trong đó Mỹ phải bấm bụng làm lơ, không được nói năng chi tới cái chuyện quân Bắc Việt đă vào Nam cả mấy chục Sư Đoàn (Divisions) rồi. Tội vạ đổ lên đầu người bạn đồng minh Việt Nam Cộng Hoà hết cả. Phái đoàn Việt Nam Cộng Hoà phản đối mấy cũng hoài hơi mà thôi v́ “ Xếp “ đă chơi đ̣n “ tháu cáy “ rồi th́ ráng mà chịu cho quen. Dân nhược tiểu chơi với anh bạn khổng lồ là vậy! Việc Mỹ làm cú đi đêm (Furtive Conspiracy) liên kết với Trung Cộng để chống Liên Sô th́ kể như 2 bên cùng có lợi, nhưng riêng phần Trung Cộng th́ lời to : Trung Cộng nhẩy vào ngồi cái ghế “ Hội viên thường trực - Permanent Member “ cuả Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, với quyền phủ quyết (Veto) đáng giá cả…tỉ tĩ Mỹ Kim, đánh văng Ông Quốc Dân Đảng Trung Hoa ra Đài Loan mà chơi luôn, mặc dầu Trung Cộng đánh thắng và kiểm soát lục địa Trung Hoa từ năm 1949. Thêm cái lợi nữa là chính quyền Nixon phải lén lút, dấu diếm bán vũ khí tối tân cho Trung Cộng để chống Liên Sô mà không được cho ai biết hết, nhất là Liên Sô, kể cả Quốc Hội, Dân Chúng và Báo Chí Mỹ nữa. Đó! Mỹ dă t́m cách tháo lui bằng mọi giá, với thế bị đánh bại rồi th́ Ông Thiệu có bỏ 2 Quân Khu 1 và 2, chớ Ông Thiệu có bỏ luôn cả Quân Khu 3, Quân Khu 4 và Biệt Khu Thủ Đô, bỏ hết miền Nam Việt Nam chăng nưă th́ Mỹ cũng chẳng bao giờ dại dột quay đầu trở lại để cứu Nam Việt Nam nữa. Nếu nói là cứu th́ cứu hết sức từ 1965 đến 1973, với 58 ngàn quân nhân Mỹ hy sinh, mấy ngàn người mất tích, hàng trăm ngàn bị thương, hàng triệu người đau khổ, mất mát, mà đâu có cứu nổi ! Nay trong lúc đă tan hàng, bỏ chạy th́ c̣n cứu cái nỗi ǵ nữa đây? Rút mau chừng nào hay chùng đó! Ông Thiệu phải biết chớ! Dù cách nào đi nữa, Ông Thiệu ra lệnh bỏ 2 Quân Khu, bắt 2 Quân Đoàn phải bỏ chạy khi chưa đánh nhau với ai cả th́: Làm rối loạn hàng ngũ quân đội và dân chúng, làm mất nước mà không chiến đấu, không kháng cự ǵ cả là tội to tầy trời của Ông Thiệu ! Lịch sử cận đại Việt Nam không thể bỏ qua chỗ này! Đại quân cộng sản đă từng chiếm đóng thành phố Huế trong dịp Tết Mậu Thân 1968, đă từng đánh chiếm Quảng Trị và kiểm soát hoàn toàn Thị Trấn An Lộc trong Mùa Hè đỏ lửa 1972 mà có Quân Khu nào bị mất, phải bỏ chạy đâu? Trái lại, Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đă phản công một cách vô cùng anh dũng, để giành lại những địa điểm chiến lược đă rơi vào tay giặc. Thế th́ tại sao mới mất có Ban Mê Thuột mà phải bỏ Quân Khu I, trong khi Danh Tướng Ngô Quang Trưởng cuả Muà hè Đỏ Lửa 1972, từng được thế giới biết đến và kính phục, luôn luôn nắm vững t́nh h́nh Quân Khu của Ông, trong khi Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Khu 2, phải lớn tiếng cự lại Tổng Thống Thiệu trong hệ thống liên lạc Vô tuyến Siêu Tần Số, dù Ông biết rằng làm như thế là có thể mất lon, phải ra trước Toà Án Quân Sự Mặt Trận. Tướng Phú đang sẵn sàng chờ địch tiến đánh Pleiku, v́ Tướng Phú biết rằng : đánh th́ chưa chắc đă chết, nhưng tự dưng bỏ chạy th́ chắc chắn cả lính lẫn dân đều phải chết bi thảm trong cảnh hỗn loạn, dưới những làn mưa băo pháo binh, hoả tiễn cuả cộng sản, tự do hoành hành mà không gặp sức chống trả.

 

Năm ngày sau, khi quân đội và dân chúng đang tháo chạy một cách thê thảm, hỗn loạn th́ Ông Thiệu lại ra lệnh cho Tướng Ngô Quang Trưởng là phải “ Tử thủ thành phố Huế “ (… five days later, Thieu orders Hue held at all costs…). Ông Thiệu vốn được chính giới coi là khôn ngoan, mưu mô, xảo quyệt từ ngày c̣n là Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh, tham gia đảo chính lật đổ Ông Diệm năm 1963, rồi lên làm Trung Tướng Chủ Tịch Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia, rồi lên làm Tổng Thống Việt Nam, Đệ Nhị Cộng Hoà, nhiệm kỳ I, kỳ 2, rồi c̣n định vận động Quốc Hội sửa đổi Hiến Pháp để Ông làm luôn Tổng Thống keo thứ 3 nưă, mà sao lúc này Ông Thiệu lại khờ khạo đến mức độ… nhiều người, nhất là nhiều Sĩ Quan trong quân đội cho là (xin lỗi) đại ngu xuẩn , để ra lệnh bỏ 2 Quân Khu, không đánh đấm chi cả, trong khi 2 Quân Đoàn Việt Nam Cộng Hoà đang trong tư thế sẵn sàng chờ địch để thêm một lần nữa cho cộng sản học lại những bài học Mậu Thân 1968 và Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Tướng Ngô Quang Trưởng trả lời là : không thể nào làm được việc đó v́ trước đó 5 ngày, Ông Thiệu đă hạ lệnh rút bỏ Quân Khu I. quân đội và cả triệu dân chúng hỗn loạn rút chạy suốt 5 ngày rồi, làm sao mà trở lại vị trí cũ, tổ chức, phối trí lực lượng để mà “tử thủ ! “ Ông Thiệu là Tướng Lănh, là Tổng Thống, Tổng Tư Lệnh quân đội mà không biết việc đó hay sao? Chẳng lẽ Ông ta (xin lỗi) điên hay ngu dại đến mức kỳ lạ như vậy?

 

* Ngày 24 - 3 - 1975 : Thấy t́nh thế thuận lợi, cộng sản Hà Nội quyết định chính thức mở màn Chiến dịch Hồ Chí Minh. Hà Nội giao cho Tướng Văn Tiến Dũng một “ Thời khoá biểu “ phải kịp thời đánh chiếm hoàn toàn Nam Việt Nam trước khi mùa mưa bắt đầu vào tháng 5. Muốn vậy, quân Bắc Việt phải vào chiếm Sài G̣n chậm nhất là tuần lễ cuối cùng của tháng 4, trước khi quân đội miền Nam có thể tái phối trí lực lượng hầu bảo vệ Sài G̣n và Quân Khu 4 ở miền Tây.

 

* Ngày 25 - 3 - 1975 : Ông Thiệu ra lệnh bỏ thành phố Huế. Trong có mấy ngày mà ra lệnh bỏ Quân Khu 1, có Huế trong đó, rồi lại ra lệnh Tử thủ Huế, rồi lại ra lệnh bỏ Huế ! Đúng là điên hạng nặng ! Vào lúc này, dân chúng đông tới hàng triệu người. Họ không quên cảnh cộng sản tàn sát tập thể dân chúng cũng như viên chức chính quyền, nhân vật Đảng Phái vào dịp Tết Mậu Thân- 1968 - nên đă kéo nhau tràn xuống thành phố Đà Nẵng, lúc đó đang bị quân cộng sản tấn công từ xa bằng hoả tiễn 122 ly cuả Trung Cộng và đại bác 130 ly cuả Liên Sô. Ông Thiệu c̣n ra lệnh: Không giữ được Huế th́ cũng phải cố mà giữ lấy vùng duyên hải Đà Nẵng, coi như vị trí chiến lược làm đầu cầu cho quân đội Mỹ đổ bộ lên, một khi chính quyền Mỹ quyết định trở lại cứu vớt Việt Nam Cộng Ḥa, đương đầu với cuộc xâm lăng đại quy mô của cộng sản. Trời Đất quỷ thần ơi! Tới lúc này mà Ông Thiệu c̣n hy vọng Mỹ trở lại cứu Việt Nam Cộng Ḥa th́ trên thế gian này, Lănh Tụ Quốc Gia, Tổng Tư Lệnh Quân Đội chỉ có Ông là một mà thôi ! Không thể có kẻ thứ 2 kiểu như thế ở cơi đời này! Ông Thiệu là Tổng Thống, “chơi” với Mỹ, đồng minh thân thiết của Mỹ, lănh tụ “ Tiền đồn chống cộng “ của Mỹ tại Đông Nam Á Châu mà Ông Thiệu đâu có biết ǵ về Mỹ : ngày 29 - 6 - 1973 Hạ Viện Hoa Kỳ đă biểu quyết dự luật cấm các hoạt động quân sự của Hoa kỳ trên toàn lănh thổ Đông Nam Á Châu. Dự luật này được lưỡng viện Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua ngày 21 – 9 – 1973. Kế theo đó, ngày 12 – 10 – 1973, lưỡng Viện lại thông qua dự luật hạn chế quyền của Tổng Thống Mỹ trong việc đưa quân đội Hoa Kỳ ra ngoại quốc (sau bài học cay đắng tại Việt Nam). Ông Thiệu lúc này loạng quạng, quáng gà là đúng thôi v́ Ông không biết ǵ về người bạn dồng minh và cũng chẳng biết ǵ về công việc phải làm của ḿnh nữa...

 

* Ngày 29 - 3 - 1975: Cộng sản chiếm thành phố Đà Nẵng, đang rối loạn, mà chẳng tốn 1 viên đạn nào. Dân chúng t́m mọi cách thoát khỏi vùng này bằng mọi giá, chấp nhận chết chóc, đau đớn chia ĺa trong máu và nước mắt… Kẻ viết bài này kẹt lại Đà Nẵng, rồi đi tù cải tạo hơn 12 năm v́ trước đó phi đạo Đà Nẵng bị hỏa tiễn Trung Cộng cầy nát, không sử dụng được nữa, trực thăng không có, tầu Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa từ trong Nam kéo ra băi biển Mỹ Khê, Quận 3 Đà Nẵng cứu nạn, nhưng đủ thứ người trốn chạy cộng sản giành nhau leo lên tầu bằng đủ mọi cách đă gây nên cảnh kinh hoàng, người già, trẻ con rơi xuống biển như những chíếc lá mùa thu. Kẻ này phải vỗ vai Đại Úy Từ Khánh Sinh, Quản Đốc Quân Lao Đà Nẵng, cựu Đại Đội Trưởng nhẩy dù: “Không đi bằng cách này được! Mấy đứa trẻ này sẽ chết hết! “ Đại Úy Sinh kiếm được tay Nghĩa Quân, đàn em, hắn lôi cái thuyền nhỏ xíu d́m dưới nước lên và tính chuyện ra khơi, lên tầu Mỹ. Ngay tức khắc, hàng chục mũi súng AK của du kích địa phương đă chĩa vào cái thuyền : thuyền ra là bắn tất cả ngay ! Cả 2 chúng tôi cùng đi tù cải tạo với nhau nơi rừng sâu, núi thẳm ghê người! Điều an ủi cho kẻ này là trước đó chỉ non một ngày, nhân danh Sĩ Quan cấp chức cao nhất của 2 Ṭa Án Quần Sự Mặt Trận và Thường Trực tại Quân Khu I c̣n có mặt, tôi đă ra lệnh phóng thích tất cả hơn 1 ngàn 700 quân phạm, bất kể loại nào, tiểu hay đại h́nh, xếp hàng, cứ 10 người một chạy ra khỏi Quân Lao, về lo chuyện gia đ́nh trước họa cộng sản đang tràn đến... Ai cũng có thân nhân, gia đ́nh, ai cũng là người cả !

 

* Ngày 6 đến 15 - 4 - 1975 : 2 Trung Đoàn thuộc Sư Đoàn 2 Bộ Binh V.N. Cộng Ḥa cùng với 1 Lữ Đoàn nhẩy dù được đổ xuống phi trường Phan Rang vào ngày 6 để hy vọng đánh trận phản công. Cộng sản thấy hơi khó ăn v́ ngán quân nhẩy dù nên để cho t́nh h́nh yên tĩnh 3 ngày. Thế là Lữ Đoàn nhẩy dù được bốc đi Xuân Lộc là nơi đang có trận đánh lớn giữa Sư Đoàn 18 Bộ Binh VN Cộng Hoà dưới quyền chỉ huy cuả Tướng Lê Minh Đảo với 2 Sư Đoàn quân Bắc Việt. Thay thế cho Lữ Đoàn nhẩy dù thiện chiến, người ta đưa tới đó 1 đơn vị Biệt Động Quân. Lập tức quân cộng sản cho xe tăng T-54 của Liên Sô ào ạt tiến vào, chọc thủng pḥng tuyến Phan Rang và chiếm đóng vùng này không khó khăn.

 

* Ngày 7 – 4 – 1975 : Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ Chính Trị cộng sản Hà Nội, tới Tổng Hành Dinh quân cộng sản ở Miền Nam, đóng tại Lộc Ninh để xem xét t́nh h́nh và quyết định kế hoạch cho giai đoạn chót cuả cuộc đánh chiếm miền Nam. Lúc này, cộng sản đă kiểm soát được 2/3 lănh thổ Nam Việt Nam.

 

* Ngày 8 đến 21 - 4 -1975 : Sư Đoàn 18 Bộ Binh VN Cộng Hoà do Tướng Lê Minh Đảo chỉ huy, chống giữ oanh liệt trước sức tấn công vũ băo cuả 2 Sư Đoàn cộng sản nhằm tiến chiếm Sài G̣n bằng cách phá vỡ pḥng tuyến cuối cùng này. Một Trung Đoàn thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh và Lữ Đoàn nhẩy dù từ Phan Rang được đưa vào tăng viện. Tướng cộng sản Văn Tiến Dũng phải tung vào mặt trận này 2 Sư Đoàn nữa là 4 Sư Đoàn tất cả để ḥng dứt điểm càng sớm càng tốt. Đánh chiếm miền Nam mùa xuân năm 1975, đây là mặt trận duy nhất quân cộng sản gặp sức chiến đấu dũng mănh, oanh liệt cuả quân đội VN Cộng Hoà, cộng sản phải dùng số quân 4 đánh 1, trong lúc thế mạnh mọi mặt đang ở phía chính họ. Tướng Homer Smith, tùy viên Quốc Pḥng Mỹ tại Sài G̣n, ngày 13, đă gửi 1 bức điện văn cho Tướng George S. Brown, Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu Hoa Kỳ ca ngợi ư chí và tinh thần chiến đấu can đảm, dũng mănh tuyệt vời của Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa, dù những bất lợi đang đè nặng tên vai họ. Tướng Smith, sau khi theo dơi cuộc chiến đấu tại Xuân Lộc, đă nói : “ Sự dũng cảm và chiến đấu anh hùng của quân chính phủ Miền Nam, kể cả Địa Phương Quân Tỉnh Long Khánh đă chứng tỏ họ chiến đấu giỏi hơn đối phương của họ rất nhiều...” Nếu Ông Nguyễn Văn Thiệu không ra lệnh bỏ 2 Quân Khu 1 và 2 ngay từ lúc chưa đánh nhau chi cả th́ quân đội miền Nam Việt Nam sẽ có biết bao nhiêu trận đánh oanh liệt như thế này, và nếu chính quyền Mỹ không cố ư bỏ chạy khỏi Việt Nam th́ làm sao cộng sản chiếm nổi Nam Việt Nam một cách dễ dàng như đă xẩy ra?   Cuối cùng pḥng tuyến Xuân Lộc chỉ rơi vào tay quân cộng sản, đông và hỏa lực mạnh gấp 4 lần, vào ngày 21 - 4 - 1975, khi quân đội VN Cộng Hoà hoàn toàn hết mọi phương tiện chiến đấu kể cả những viên đạn cuối cùng .

 

* Ngày 21 đến 25 - 4 - 1975 : Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bị áp lực từ nhiều phía phải tuyên bố từ chức, chuyển giao quyền hành cho Phó tổng Thống Nguyễn Văn Hương để ra ngoại quốc, đem theo những ǵ Ông đă lo liệu từ trước cho cuộc sống ở nước ngoài, bỏ lại đằng sau: Quê Hương, Chiến Hữu và Đồng Bào của Ông, là những ǵ thiêng liêng mà Ông đă từng long trọng tuyên đọc lời thề khi nhậm chức Tổng Thống, cũng như trong các dịp Quốc Lễ là sẽ sống chết bảo vệ đến hơi thở cuối cùng.

 

* Ngày 23 - 4 - 1975: Tại Hoa kỳ, Tổng Thống Ford (Gerald Rudolph Ford – Tổng thống thứ 38 – Ông Tổng Thống duy nhất của Hoa Kỳ làm Tổng Thống mà không hề được dân chúng, cử tri bầu vào chức vụ Tổng Thống hay Phó Tổng Thống, dù là chỉ 1 phiếu) nói “ Chiến tranh Việt Nam kể như chấm dứt. “ Dư luận hiểu rằng “Chính quyền Mỹ lúc đó đă buông tay và… chạy làng” bằng mọi giá, trong khi Liên Sô và Trung Cộng hồ hởi, phấn khởi là đă hoàn thành nhiệm vụ “ Dứt điểm tiền đồn chống cộng cuả Mỹ tại Á Châu “.

 

 * Ngày 28 - 4 - 1975 : Bị áp lực nặng nề cũng từ nhiều phiá, Tổng Thống Trần Văn Hương phải trao quyền hành cho Tướng 4 sao Dương Văn Minh, người đă đóng vai chính trong vụ đảo chính lật đổ Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm tháng 11 năm 1963, để cho chính quyền Mỹ đổ quân tác chiến vào Nam Việt Nam và lănh đạo cuộc chiến tranh ở đây theo kiểu “chiến tranh nhà giầu cuả Mỹ “ nhưng hoàn toàn vô hiệu đối với kiểu “chiến tranh nhân dân - People's War “ không có mục tiêu, không trận tuyến, lẫn lộn với nhân dân của cộng sản. Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống theo đúng với sự sắp xếp cuả Hà Nội, qua trung gian cuả người em ruột Dương Văn Nhựt, Sĩ Quan cao cấp cuả cộng sản, đă có liên lạc với Dương Văn Minh từ hồi Tướng Minh được Ông Diệm cho thăng Trung Tướng sau khi Tướng Minh đánh tan các lực lượng giáo phái vũ trang ở miền Tây. Chuyện đó bại lộ. Tướng Minh, v́ có công trạng, và Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, người bà con, cùng quê quán xin cho, nên được 2 Ông Diệm, Nhu tha tội, chỉ bị mất chức cầm quân, ngồi ghế Tổng Thanh Tra hữu danh nhưng vô thực. Tổng Thống Dương Văn Minh luôn luôn phải nhận lệnh qua điện thoại với Ông Thích Trí Quang, một nhân vật trong hàng lănh đạo tôn giáo, người gốc Bắc Việt, đă 2 lần bị Tây bắt từ hồi chiến tranh Việt-Pháp v́ t́nh nghi hoạt động cho Việt Minh cộng sản, người đă lănh đạo dân chúng đấu tranh tôn giáo lật đổ Ông Ngô Đ́nh Diệm (… Thich Tri Quang, a politically sophisticated Monk of North Vietnamese origin, twice arrested by French on suspicion of Vietminh connections , stirs the people against Ngo Dinh Diem…) đấu tranh tôn giáo chống chính quyền Thiệu - Kỳ - Có hồi 1966 ở Miền Trung Việt Nam, nhưng cuối cùng bị Tướng Không Quân Nguyễn Cao Kỳ, với cương vi Thủ Tướng, cùng 1 tôn giáo với Ông, cho quân đội và quân cảnh từ trong Nam ra dẹp tan, bắt Ông Thích Trí Quang nhốt lại, dẹp yên chuyện đấu tranh rối loạn lung tung, làm nát bét xă hội miền Nam, hoàn toàn chỉ có lợi cho cộng sản.

 

 * Tướng Dương Văn Minh, một Tướng đánh giặc giỏi nhưng hoàn toàn không biết ǵ về chính trị, lại nhẩy ra làm Tổng Thổng trong giai đoạn nước sắp mất, với 1 cổ 2 tṛng, nhận lệnh từ 2 nơi (Cả ông Thích Trí Quang lẫn đại diện cộng sản Hà Nội đều hứa hẹn với Ông những điều tốt đẹp) th́ làm được cái ǵ đây? Ông Minh làm Tổng Thống chỉ làm được có mỗi một việc: Theo lệnh của cộng sản, đă chiếm xong dinh Độc Lập, lên tiếng tuyên bố « đầu hàng vô điều kiện” mà thôi. Ôi! Giây phút xót sa, đau đớn cho biết bao nhiêu tâm hồn, nhất là những người quốc gia đă bao năm quyết tâm chống cộng sản Hà Nội để giữ vững Nam Việt Nam. Kẻ viết bài này đă bật khóc, hai tay ôm lấy mặt, trong lúc đang bị tạm giam tại trại tập trung Vĩnh-Điện, Quảng Nam cùng với hàng chục ngàn người trong hoàn cảnh tan hàng, thua trận, bị cầm tù một cách đau buồn và tủi nhục. Năm 1951, với tuổi 20, đang đi kháng chiến chống Pháp, ḿnh bị Tây bắt ở Huyện Tiên Hưng, Thái B́nh, đem về tập trung ở sân vận động tĩnh Thái B́nh, rồi đưa về giam ở Nhà Máy Rượu, thành phố Nam – Định mà có sao đâu, coi là chuyện thường v́ đấu tranh cho đại cuộc là như thế, không thấy đau buồn tủi nhục bằng hơn 20 năm chống cộng sản, bị cộng sản cầm tù, đưa đi cải tạo, rồi phải theo lệnh bộ đội cộng sản, dí súng vào sau lưng, bắt vỗ tay hoan hô khi nghe Dương Văn Minh, qua hệ thống truyền thanh, tuyên bố đầu hàng vô điều kiện... Thế là nước mất, nhà tan, đau buồn, uất hận v́... mất hết ! mất hết ! mất cả thể xác lẫn tâm hồn...

 

* Xin trở lại: rạng sáng Ngày 30 tháng 4, quân cộng sản tiến vào Sài G̣n, vẫn c̣n gặp vài ổ kháng cự lẻ tẻ. Xe tăng cộng sản hung hăng ủi xập cổng Dinh Độc Lập để quân cộng sản tiến vào. Dương Văn Minh cứ yên trí theo bài bản đă nhận được từ “cấp trên” qua điện thoại, ra đón tiếp quân “giải phóng” và sau đó “xin bàn giao chính quyền”. Viên Đại Tá chỉ huy quân cộng sản lúc đó quát vào mặt Dương Văn minh “Các Anh c̣n cái ǵ nữa vào lúc này mà đ̣i bàn giao? Chỉ có chấp nhận đầu hàng vô điều kiện mà thôi! “Đại Tá cộng sản Bùi Tín (đă bỏ đi Pháp) lúc đó đóng vai Chính Ủy bên cạnh viên Đại Tá Chỉ huy quân giải phóng, vào Dinh Độc Lập. Bùi Tín khôn ngoan, nhỏ nhẹ hơn nên nói “ Chúng tôi chấp nhận việc đầu hàng của các Ông. Các Ông không có chi phải sợ cả. Người Mỹ là kẻ xâm lăng đă bị đánh bại. Nếu các bạn là những người yêu nước th́ hăy coi giờ phút này là niềm vui chung của dân tộc, và trên đất nước của chúng ta, chiến tranh đă chấm dứt!” Buổi sáng hôm đó, cộng sản bắt Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng trước quân cộng sản. Chiến tranh đă chấm dứt, đất nước đă thống nhất nhưng dân chúng miền Nam không vui mừng, sung sướng, hạnh phúc mà lại xô nhau chạy đi mọi ngả, t́m cách thoát chạy khỏi chính quê hương, đất nước của ḿnh để tránh họa cộng sản, bất kể mọi gian nguy, bị giết chóc, cướp bóc, hải tặc hăm hiếp, quăng xác xuống biển…  Chính quyền mới truy lùng, tiêu diệt, bắt bớ những kẻ đă phục vụ cho chế độ cũ, nhân vật Đảng Phái chính trị, tống họ vào những trại tập trung cải tạo ở các vùng rừng núi âm u, hiểm hóc, cách biệt hẳn với xă hội loài người. Nam Bộ là cái túi đựng người quá đông đảo mà lại không có rừng núi thích hợp cho việc thiết lập các trại cải tạo, vừa an toàn lại có lợi nhiều cho nên cộng sản mới phải đưa số đông “ kẻ thù “ của họ ra Bắc, tống lên các trại cải tạo vùng Thượng Du Bắc Việt.

 

 * Cán bộ cộng sản từ lớn đến nhỏ, ngơ ngáo nh́n Sài G̣n và Nam Việt Nam trong cảnh xác sơ, buồn thảm nhưng vẫn không làm mất, che dấu được sự phồn thịnh, phát triển quá cao so với “thiên đàng hay địa ngục Bắc Bộ”, thi nhau vơ vét tài sản của kẻ bỏ chạy, của nhân dân Miền Nam “tay sai Mỹ Ngụy” đem về Bắc như những chiến lợi phẩm cuả 1 cuộc chiến thắng. Sau này, có cơ hội tiếp xúc với người thân ở Bắc Việt Nam, từng giữ chức vụ quan trọng trong bộ máy chính quyền cộng sản thời gian này, kẻ viết được biết mật lệnh của cộng sản Hà Nội lúc đó có những điểm rất kinh khủng: bắt nhốt hết mọi kẻ có khả năng chống cự, nổi dậy sau này, tịch thâu mọi loại vũ khí có tầm sát hại tập thể hay cá nhân, khi có dấu hiệu hay mầm mống biến động th́ tất cả những kẻ ít nguy hiểm nhất cũng phải tập trung cải tạo (v́ thế khi Trung Cộng tràn vào đánh phá 6 Tỉnh miền Bắc Việt Nam 27 tháng 2 – 1979 để “dậy cho cộng sản Hà Nội 1 bài học” th́ ngay ngày hôm sau, tất cả mọi Sĩ Quan đă giải ngủ lâu hay mau, không đi cải tạo sau 30 – 4 – 1975, cũng phải nhốt đầu lại hết), cán bộ, nhất là công an phải t́m cách dụ dỗ vợ con, làm áp lực để phá tan các gia đ́nh sĩ quan đă đi cải tạo để lấy hết, vét hết, không cho lực lượng sĩ quan khi trở về, c̣n có thể làm chi được nữa, chỉ c̣n lo miếng cơm ăn cũng không nổi ...Thân phận cuả một Đất Nước nhỏ bé đă có “Ngàn năm nô lệ giặc Tầu - Trăm năm nô lệ giặc Tây “ nhưng cũng có 900 năm độc lập, tự chủ, sau trận đánh thắng lẫy lừng của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng, đánh bại đạo quân xâm lược khổng lồ cuả nhà Nam Hán, lúc này lại như thế đó !

 

* Đất nước Việt Nam cuối cùng chỉ là băi chiến trường để 2 phe đối nghịch ư thức hệ quốc tế tiêu thụ vũ khí chiến tranh và thử nghiệm chính sách cuả ḿnh: 1 bên là chính sách ngăn chặn (Containment Policy) của Mỹ chống lại Chủ nghiă bành trướng (Expansionism) của phong trào cộng sản quốc tế. Sự việc này thực ra đă được nh́n thấy truớc và ra sức ngăn chặn không cho Nam Việt Nam rơi vào hoàn cảnh đó: Ngô Đ́nh Diệm và Ngô Đ́nh Nhu. Hai nhân vật này đă bị những người thân cận chung quanh lợi dụng uy thế để kiếm danh kiếm lợi, làm hỏng kế hoạch chống cộng có sách lược hiệu quả (Effective Policy & Strategy) hẳn hoi, đă bị sức ép, mưu hại từ phía người bạn đồng minh khổng lồ, lúc đó bị bị giới tài phiệt (Financial Oligarchy) khuynh đảo, chủ trương buôn bán chiến tranh, t́m cách loại trừ bằng sức mạnh quân đội và tôn giáo của chính Miền Nam Việt Nam.

 

* Có bao giờ những nhà lănh đạo Hoa Kỳ dám nghĩ rằng: Một ngày nào đó Hoa Kỳ phải chịu sự thua trận đầu tiên, với cái giá quá cao, thê thảm như vậy không? Thê thảm đến nỗi Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài G̣n, Graham Martin, suưt nữa th́ không kịp ôm lá cờ “Bách chiến bách thắng” chui vào phi cơ trực thăng để tháo chạy hay không? Thật là đau đớn! Tuy nhiên, ở đây kẻ viết cũng xin nói lên lời ghi ơn ông Đại Sứ Martin đă cương quyết và khéo léo chống lại kế hoạch của Hoa Thịnh Đốn muốn di tản 6 – 7 ngàn người Mỹ bị kẹt lại ở Sài G̣n vào lúc quân cộng sản đă chuẩn bị vào làm chủ vùng đất này, theo phương cách: đưa Thủy Quân Lục Chiến Mỹ vào Sài G̣n giữ ṿng đai an ninh quanh khu vực Ṭa Đại Sứ để phi cơ trực thăng từ Hạm Đội Thái B́nh Dương liên tục bốc người Mỹ và một số nhân viên làm việc cho Ṭa Đại Sứ và các cơ sở phụ thuộc của Mỹ mà thôi, không cho dân chúng Sài G̣n, Nam Việt Nam dính ké vào vụ di tản kinh hoàng này. Ông Đại Sứ khôn ngoan và ít nhiều nhân đạo Martin đă chống lại quyết định của Hoa thịnh Đốn với lư luận : Sĩ Quan, quân lính Nam Việt Nam c̣n đông đảo tại Sài G̣n và vùng phụ cận với tâm trạng tức giận lẫn bàng hoàng, họ c̣n ñuû các loại vũ khí lớn nhỏ trong tay. Nếu người Mỹ di tản theo cách ích kỷ và tàn nhẫn đó th́ những chiếc trực thăng sẽ bị bắn hạ như trái cây chín rụng và cuộc chiến đẫm máu, tàn khốc giữa những chiến binh Nam Việt Nam và thủy quân lục chiến Mỹ bắt buộc phải xẩy ra, Sài G̣n và dân chúng vô tội sẽ lănh nhiều hậu quả không cách nào lường trước được.

 

* Giới truyền thông cuả Mỹ, trước và sau ngày Miền Nam xụp đổ, đa số đă sa vào mê hồn trận của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản, bị ảnh hưởng của phong trào phản chiến do Đảng Cộng sản Mỹ chủ trương và lănh đạo, đánh giá Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa qua h́nh ảnh những ngày rút quân, bỏ chạy tán loạn do lệnh của ông Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Báo chí Mỹ bị mặc cảm lần đầu tiên thua trận, bỏ cuộc, chạy làng cho nên đă không tiếc lời đổ hết mọi tội lên đầu Quân Đội VN Cộng Ḥa là thiếu tinh thần chiến đấu. Họ đâu có biết Quân Đội VN Cộng Ḥa chiến đấu trong hoàn cảnh khắc nghiệt ra sao, chiến đấu không ngưng nghỉ, phương tiện thiếu thốn chớ đâu có được chiến đấu trong hoàn cảnh “nhà giầu” như quân đội Mỹ ở Việt Nam lúc đó, được bảo vệ, yểm trợ một cách gần như tuyệt đối. Họ đâu có biết chính quyền của Ông Johnson ở Hoa Thịnh Đốn đổ quân vào Việt nam, ḥng tiêu diệt cộng sản ở đây trong ṿng 3 năm, nhưng lại làm cái việc kỳ quái, mà chỉ có giới tài phiệt Mỹ mới hiểu được là “… Johnson's administration made agreements to sell or give the Soviet Union and her commuinist satellites hundreds of millions of dollars worth of food, electronics computers, chemical plants, oil refinery equipment, airborne radar apparatus, jet aircraft engines, machine tools for an $800-million auto assembly plant and military rifles…” Đó! Bán hoặc cho cộng sản Liên Sô và các nước cộng sản chư hầu thực phẩm, máy điện toán, dụng cụ, hoá chất, động cơ máy bay phản lực, máy Radar, nhà máy chế tạo xe cộ, súng đạn, để rồi tất cả những thứ đó lại đổ lên quân cảng Hải Pḥng, đem vào chiến trường Miền Nam để giết lính Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà! Chỉ có Trời mới hiểu nổi!

 

Ở đây, kẻ viết chỉ muốn nói lên một điều: Quân Đội VN Cộng Ḥa nói chung, đă chiến đấu rất anh dũng, kiên cường, bất chấp mọi trở ngại, khó khăn, thiếu thốn. Miền Nam xụp đổ, nhiều Tướng Lănh: Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng vv... và nhiều Sĩ Quan cao cấp đă tự sát trong khung cảnh vô cùng oanh liệt, chưa từng có trong quân đội 1 quốc gia nào trên thế giới, họ không chịu đầu hàng hay để bị bắt làm tù binh, hàng triệu quân nhân, viên chức chính phủ, nhân vật Đảng Phái chính trị bị nhốt vào các trại tù cải tạo khổng lồ nơi rừng thiêng, nước độc, dân chúng ồ ạt bỏ nước ra đi, bỏ hết tài sản, không kể sống chết, thảm hoạ kinh hoàng trên biển cả vv… là những vấn đề vượt quá khả năng và tầm tay cuả người Việt Miền Nam  chúng ta. Chỉ có các Đấng thiêng liêng, chỉ có Lịch Sử mới hiểu được mà thôi !

 

Điều đáng mừng cho chúng ta là càng ngày, dân chúng Hoa Kỳ cũng như thế giới loài người càng hiểu ra sự thật của cuộc chiến tranh Việt Nam (mà có những nhà chính trị, Giáo Sư Đại Học lẩm cẩm kêu là cuộc nội chiến, tức là người Việt Nam đánh lộn với nhau) một Bai Học Đắt Giá , quư báu cho người Việt Nam, cho siêu cường quốc Hoa Kỳ và tất cả các quốc gia nhược tiểu khác trên thế giới. Nước nhỏ yếu mà chỉ trông cậy, giao vận mạng dân tộc ḿnh vào tay một nước lớn mạnh khác lo hộ hoàn toàn th́ nhiều chuyện nguy hiểm bắt buộc sẽ phải đến. Nước lớn, dù là Đệ Nhất Siêu Cường Quốc mà thiếu chung thủy, coi thường Đồng Minh, bạn bè, phản bội dễ dàng những người đă từng sống chết với ḿnh trên cùng một chiến tuyến, coi thường Liên Hiệp Quốc là cơ quan quốc tế có thẩm quyền cao nhất để giải quyết những khó khăn, tháo gỡ những rắc rối, tranh chấp điên khùng của loài người ngày nay có nhiều tham lam, ích kỷ, ưa dùng bạo lực, ít biết đến giá trị của ḥa b́nh... th́ không được đồng minh, bạn bè chân thành kính nể, rồi không lúc này th́ cũng lúc khác sẽ bị những thế lực thù địch khác, mà tất nhiên có nhiều kẻ thù lớn nhỏ, t́m cơ hội đánh cho những đ̣n chí mạng, thảm khốc, kinh hoàng, loài người xưa nay chưa từng thấy, chưa dám nghĩ đến, nhất là trong một thế giới ngày nay khoa học, kinh tế, vũ khí chiến tranh, quyền lợi, tôn giáo xung đột, phát triển mau hơn, mạnh hơn so với mức độ ḥa giải, tuy có, nhưng khó khăn và chậm chạp. Cho đến bây giờ, tháng 3 – 2006, một số các nhân vật chính trị, các Giáo Sư Sử Học, Chính Trị Học mới tụ họp nhau lại ở Boston để t́m ra phần nào những sai lầm, thiếu sót của chính quyền Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam, như đă nói sơ lược ở trên, trong khuôn khổ hạn hẹp của một bài báo, không phải là 1 cuốn sách, hầu cải thiện t́nh trạng bế tắc, hiểm nghèo, sa lầy của cuộc chiến tranh tại Iraq giữa 1 Siêu Cường Quốc (Superpower) hàng đầu của thế giới loài người với 1 quốc gia nhỏ bé, tầm thường, đă bị thương nặng trong cuộc chinh phạt thần tốc (lighting-speed expedition) của lực lượng Đồng Minh, Dân Chủ, Tư Do mà chính yếu là Hoa Kỳ, vào năm 1991.   

 

Chúng ta có quyền hi vọng ở tương lai: thế hệ trẻ Việt Nam, những người yêu nước trong cũng như ngoài nước, với tŕnh độ kiến thức, hiểu biết rộng răi về “ Tiến tŕnh cuả nhân loại - Process of Human Society “ , hiểu biết về khoa học, kỹ thuật, nhất là với niềm tự hào cuả một Dân tộc tuy nhỏ bé, gần như suốt đời này qua đời khác, luôn luôn bị xâm lăng, thống trị dă man, tàn bạo, nhưng không bao giờ đánh mất Niềm Tin vào Tổ Quốc, từng có những trang sử oanh liệt cuả Ngô Quyền, Lê Lợi, Lư Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Quang Trung Nguyễn Huệ vv… sẽ măi măi muôn đời có mặt trong Cộng Đồng Thế Giới Tự Do, Tiến bộ và thật sự Văn Minh.  

                                                                                                        

                                            Phan Đức Minh

        

Tài liệu tham khảo:

* The Death of a Nation. - John A. Stormer. - Liberty Bell Press. - Missouri - 1978.                                                                                                      

 * The World Almanac of The Vietnam War -John S. Bowman (General Editor). - Bison Books Corp,  NewYork.-1985

* Vietnam - The History & The Tactics.- Ashley Brown & Adrian Gilbert.- Orbis Publishing Limited, London - 1982.

* Kennedy. - Theodore Sorensen. - Harper & Row . New York - 1965.

* New Standard Encyclopedia .-. Standard Educational Corporation. Chicago – 1981.

* Henry Kissinger’s Diplomacy. - Simon & Schuster .-  New York, 1994.

* A Book of U.S. Presidents - George Sullivan - Scholastic Incorporation, New York - 1984.

* Một số tài liệu chọn lọc trên Internet của những Nhân Vật chính trị, Giáo Sư Chính Trị và Sử học danh tiếng.-

                                   ***