Luật về bảo vệ nạn nhân bạo hành
Nguyễn Đạt
Năm 1992 Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua Đạo Luật Bảo Vệ Nạn Nhân Bạo hành
(Torture Victim Protection Act) mang kư hiệu Pub. L. No. 102-256, 106 Stat.
73 (1992), nhằm mục đích thi hành Công Ước Chống Bạo hành, Ngược Đăi và
những H́nh Thức Đối Xử Tàn Bạo, Phi Nhân và Chà Đạp Nhân Phẩm Khác
(Convention Against Torture and Other Cruel, Inhuman or Degrading Treatment
or Punishment) mà Hoa Kỳ đă phê chuẩn tham gia.
Công Ước này cũng được ghi nhận trong hệ thống tra cứu luật pháp Hoa Kỳ dưới
kư hiệu G.A. Res. 39/46, 39 U.N. GAOR Supp. No. 51, at 197, U.N. Doc.
A/RES/39/708 (1984).
Đạo Luật Bảo Vệ Nạn Nhân Bạo Hành cho phép nạn nhân là công dân ngoại quốc
(không phải công dân Mỹ) hoặc người đại diện họ được quyền khởi kiện dân sự
trước ṭa án liên bang Mỹ chống lại các chính phủ ngoại quốc và cá nhân quan
chức ngoại quốc đă có hành vi bạo hành đối với nạn nhân là công dân nước họ
hoặc nước khác. Luật này có mục đích bảo vệ các nạn nhân chính trị ở những
quốc gia theo đuổi chính sách độc tài quân sự thường thấy ở Á Châu và Trung
Mỹ, nơi mà nhân quyền bị chà đạp thô bạo.
Thật ra không phải chờ đến năm 1992 Quốc Hội Mỹ mới thông qua một đạo luật
như vậy. Trước đó hơn hai thế kỷ, vào năm 1789, Đạo Luật Dân Sự Phạm Ngoại
Kiều (Alien Tort Act) đă được ban hành và điển chế hóa dưới kư hiệu 28
U.S.C. §1350 hay gọn hơn §1350, nhưng bị ch́m vào quên lăng măi cho đến năm
1980 sau khi phán quyết liên quan đến vụ kiện Filartiga v. Pena-Irala trở
thành án lệ nổi tiếng và được ghi nhận trong hệ thống tra cứu luật pháp Hoa
Kỳ dưới kư hiệu 630 F.2d 876 (2d Cir. 1980).
Trong vụ kiện Filartiga v. Pena-Irala, các nguyên đơn là hai cha con gia
đ́nh Filartiga người Paraguay có con trai và anh trai bị quan chức cảnh sát
tên là Pena-Irala ở một thành phố của Paraguay tra tấn thô bạo đến chết. Sau
khi khởi kiện bất thành tại các ṭa án Paraguay, các nguyên đơn quyết định
kiện quan chức cảnh sát đó ra trước ṭa án Mỹ yêu cầu bồi thường. Ṭa án
liên bang Mỹ chấp nhận giải quyết vụ kiện với nhận định rằng luật quốc tế
nghiêm cấm các hành vi bạo hành của nhà nước đối với cá nhân và Đạo Luật Dân
Sự Phạm Ngoại Kiều ban cấp thẩm quyền tài phán cho ṭa án liên bang trong
việc giải quyết những vụ kiện chống lại các hành vi vi phạm luật pháp quốc
tế như vậy.
Án lệ Filartiga 1980 ngay lập tức tạo ra một làn sóng các vụ kiện theo Đạo
Luật Dân Sự Phạm Ngoại Kiều do các công dân ngoại quốc khởi kiện chính phủ
và quan chức nước họ vi phạm nhân quyền ra trước ṭa án Mỹ, nhiều vụ kiện
thành công với số tiền bồi thường thiệt hại được tuyên lên đến hàng triệu Mỹ
kim. Tuy nhiên, sự thành công của những vụ kiện như vậy khiến ngành hành
pháp Mỹ lo ngại v́ việc xét xử của cơ quan tài phán Mỹ đối với hành vi vi
phạm nhân quyền ở nước khác dường như đă can thiệp vào chính sách đối ngoại
của Chính phủ Hoa Kỳ.
Nhân quyền là một quyền có tính chất toàn cầu, với giá trị phổ quát vượt mọi
biên giới địa lư.
Kết quả của lo ngại đó đă dẫn đến một án lệ khác không kém phần nổi tiếng,
đó là phán quyết trong vụ kiện Tel-Oren v. Libyan Arab Republic năm 1984,
được ghi nhận trong hệ thống tra cứu luật pháp Hoa Kỳ dưới kư hiệu 726 F.2d
774 (D.C. Cir. 1984). Trong vụ này, gia đ́nh các nạn nhân người Israel, Mỹ
và Hà Lan bị thiệt mạng trong vụ mưu sát mang tính chất khủng bố do Tổ Chức
Giải Phóng Palestine (PLO) chủ mưu và thực hiện (nhóm khủng bố này lúc đó
được chính phủ Libya chứa chấp), đă khởi kiện cả PLO lẫn chính phủ Libya ra
trước ṭa án Mỹ. Tuy nhiên, cả ṭa sơ thẩm lẫn thượng thẩm đều bác bỏ đơn
kiện của phía nguyên đơn với nhiều lập luận khác nhau.
Án lệ Tel-Oren 1984 ngay lập tức khiến h́nh ảnh nước Mỹ trong vai tṛ người
bảo vệ nhân quyền tin cậy trên toàn cầu bị ảnh hưởng. Để đáp lại án lệ
Tel-Oren, năm 1992 các nghị sĩ Quốc Hội Hoa Kỳ đă vận động thông qua Đạo
Luật Bảo Vệ Nạn Nhân Bạo Hành như đă nêu trên, cho phép các nạn nhân chính
trị trên toàn thế giới có thể khởi kiện chính phủ và quan chức nước họ v́
những hành vi bạo hành vi phạm nhân quyền dưới mọi h́nh thức.
Bạo hành trong phạm vi áp dụng của Đạo Luật Bảo Vệ Nạn Nhân Bạo Hành bao gồm
những hành vi đe dọa, ngược đăi, chà đạp nhân phẩm, trấn áp, tù đày, giam
cầm, đánh đập, tra tấn, sát hại hoặc thủ tiêu mà các chính phủ và quan chức
ngoại quốc thực hiện nhằm xâm phạm đến thể xác hoặc tinh thần của nạn nhân
với mục đích cưỡng bức họ, chẳng hạn, phải cung cấp thông tin hoặc thừa nhận
những cáo buộc vô lư hoặc chịu đựng phân biệt đối xử v́ những lư do văn hóa,
tôn giáo, chính kiến, sắc tộc, v.v…
Chi tiết
Một vụ kiện khởi xướng theo Đạo Luật Bảo Vệ Nạn Nhân Bạo Hành có những đặc
điểm và chi tiết sau đây:
1. Nguyên đơn có thể là chính nạn nhân của hành vi bạo hành hoặc có thể là
gia đ́nh hoặc những cá nhân và tổ chức đại diện họ tại Hoa Kỳ.
2. Bị đơn là các chính phủ hoặc quan chức đă thực hiện hành vi bạo hành đối
với nạn nhân, dù trực tiếp hay gián tiếp thông qua những cá nhân hoặc tổ
chức mà họ thành lập hay vận động. Cần lưu ư rằng bị đơn có thể bao gồm cả
chính phủ và quan chức liên quan.
3. Cơ sở khởi kiện là sự hiện hữu của hành vi “vi phạm luật pháp quốc tế”,
một điều kiện xác lập thẩm quyền tài phán của ṭa án liên bang Mỹ đối với
loại vụ kiện này. V́ bạo hành của nhà nước đối với cá nhân bị nghiêm cấm
tuyệt đối trong các văn kiện quốc tế đa phương, bao gồm cả Hiến Chương Liên
Hiệp Quốc và các công ước quốc tế về nhân quyền, nên nếu có bằng chứng về sự
bạo hành, tức là có sự hiện hữu của hành vi “vi phạm luật pháp quốc tế” th́
nguyên do khởi kiện (cause of action) được xác lập để ṭa án thụ lư giải
quyết.
4. Trách nhiệm dẫn chứng (burden of proof) thuộc về nguyên đơn, tuy nhiên
không khó để cung cấp bằng chứng hợp lệ theo luật pháp Hoa Kỳ và thuyết phục
ṭa án chấp nhận. V́ đây là một vụ kiện dân sự nên những yêu cầu về h́nh
thức của bằng chứng bạo hành không khắc khe như đối với những vụ án h́nh sự,
nên nếu bị đơn từ chối tham gia vụ kiện, ṭa án sẽ dễ dàng và nhanh chóng
chấp nhận sự hữu hiệu của bằng chứng do nguyên đơn xuất tŕnh.
5. Thời hiệu khởi kiện là 10 năm kể từ ngày sự bạo hành được chứng minh là
hiện hữu.
6. Nh́n chung, nguyên đơn có những lợi thế sau đây so với bị đơn trong vụ
kiện:
(a) Do “thể diện quốc gia” bị đơn thường không dễ dàng chấp nhận tham gia vụ
kiện để thách thức chứng cứ của nguyên đơn hoặc đưa ra lập luận phản biện.
Điều này gây bất lợi lớn cho bị đơn v́ thủ tục tranh tụng dân sự ở Mỹ tuân
theo nguyên tắc đối tụng, tức là các bên đương sự toàn quyền cung cấp chứng
cứ và lập luận, thẩm phán chỉ thủ giữ vai tṛ trọng tài trung gian. Nếu một
bên không cung cấp chứng cứ và lập luận của ḿnh, ṭa án sẽ dựa trên chứng
cứ và lập luận của bên kia để phân xử.
(b) Tổn thất về thể xác và tinh thần nếu chứng minh được sẽ là cơ sở để yêu
cầu bồi thường với trị giá đáng kể. Nếu bị đơn khước từ phán quyết buộc bồi
thường th́ tài sản của họ bên ngoài lănh thổ quốc gia có thể bị sai áp (kê
biên) để thi hành án. Nếu bị đơn là một quan chức, tài khoản ở ngoại quốc
của người này dù do người khác đứng tên, nếu có bằng chứng về sự liên hệ
trực tiếp, sẽ bị phong tỏa để bồi thường. Nếu bị đơn là nhà nước, mọi phương
tiện giao thông vận tải giá trị lớn, như máy bay và tàu bè, khi di chuyển ra
nước ngoài sẽ bị sai áp bán đấu giá để bồi thường.
(c) Sự câu thúc thân thể và dẫn độ bị đơn hoặc đại diện của họ có thể được
áp dụng nếu có bằng chứng về sự gian lận trong việc tẩu tán tài sản nhằm
tránh thi hành án, bởi lẽ khi đó sự gian lận là tội phạm h́nh sự.
7. Vụ kiện tuy nhiên có những trở ngại sau đây:
(a) Ṭa án có thể phải cân nhắc cẩn thận yếu tố quan hệ ngoại giao nếu bị
đơn là một chính phủ ngoại quốc. Như đă nói, nhiều phán quyết trước đây được
tuyên theo Đạo Luật Dân Sự Phạm Ngoại Kiều đă bác bỏ đơn kiện của nguyên đơn
do sự lo ngại của chính phủ Mỹ về sự can thiệp của ngành tư pháp vào chính
sách ngoại giao.
Tuy nhiên, do Đạo Luật Bảo Vệ Nạn Nhân Bạo Hành được ban hành từ năm 1992,
nên trở ngại này không c̣n đáng kể v́ hai lẽ: thứ nhất, đạo luật này có mục
đích thi hành Công Ước Chống Bạo Hành, Ngược Đăi Và Những H́nh Thức Đối Xử
Tàn Bạo, Phi Nhân Và Chà Đạp Nhân Phẩm Khác mà Hoa Kỳ đă phê chuẩn tham gia;
và thứ hai, một xu hướng thắng thế trong án lệ Hoa Kỳ bác bỏ sự lo ngại của
chính phủ Mỹ đă được h́nh thành trên cơ sở lập luận rằng thể chế chính trị
của Mỹ tuân thủ nguyên tắc tam quyền phân lập, ngành tư pháp hoàn toàn độc
lập để thực thi công lư, nên ngành hành pháp không có quyền đương nhiên can
thiệp vào hay quan ngại về hoạt động tài phán của ṭa án.
(b) Bị đơn là quan chức thường lập luận rằng trong lúc thực hiện hành vi bạo
hành, họ đang đại diện quốc gia và do đó có quyền đặc miễn ngoại giao với tư
cách là một nhân viên công vụ. Với quyền đặc miễn ngoại giao, bị đơn có
quyền khước từ tham gia vụ kiện một cách hợp lệ. Tuy nhiên, lập luận này chỉ
hữu hiệu khi quan chức vẫn c̣n đương chức trong lúc vụ kiện đang diễn ra.
Nếu ṭa án Mỹ chấp nhận lập luận của bị đơn, th́ vụ kiện sẽ bị đ́nh hoăn cho
đến khi bị đơn không c̣n quyền đặc miễn ngoại giao do về hưu hay từ chức.
Thời hiệu khởi kiện 10 năm, tuy nhiên, sẽ được tính lại từ thời điểm đ́nh
hoăn vụ kiện và tất nhiên đây là một lợi thế của nguyên đơn.
Giá trị phổ quát
Án lệ Hoa Kỳ cho thấy rằng hầu hết những vụ kiện liên quan đến bị đơn là
những quan chức đă về hưu hay thôi chức vụ thường thành công v́ họ không thể
nại lư do quyền đặc miễn ngoại giao để khước từ tham gia vụ kiện một cách
chính đáng, và ở những quốc gia Á Châu và Trung Mỹ quan chức về hưu hay thôi
chức vụ thường có nhiều tài khoản bí mật ở nước ngoài với ngạch số kư thác
không nhỏ, nên khả năng thi hành án rất cao.
Nhân quyền là một quyền có tính chất toàn cầu, với giá trị phổ quát vượt mọi
biên giới địa lư. Con người ở đâu cũng đều hưởng sự b́nh đẳng như nhau bất
kể khác biệt, thậm chí dị biệt, về văn hóa, tôn giáo, chính kiến và sắc tộc,
nên cách hiểu và sự tôn trọng nhân quyền cũng phải dựa trên nền tảng chung
toàn nhân loại.
Nếu Tổ Chức Thương Mại Thế giới (WTO) định ra những quy tắc chung cho việc
thực thi các quyền thương mại có tính chất toàn cầu, không phân biệt quốc
gia và lănh thổ, th́ Hiến Chương Liên Hiệp Quốc cũng buộc mọi thành viên của
ḿnh trong cộng đồng quốc tế phải tôn trọng nhân quyền theo những chuẩn mực
chung, bất di bất dịch, của toàn nhân loại. Không thể có loại nhân quyền
mang tính chất “đặc thù” của từng quốc gia theo cách lư giải ngụy biện với
mục đích chà đạp nhân quyền thường thấy.
Vi phạm nhân quyền do vậy bị xem là vi phạm luật pháp quốc tế, nên để tuân
thủ các cam kết quốc tế của Hoa Kỳ, luật pháp nước này đă mở rộng thẩm quyền
cho phép ṭa án Mỹ trực tiếp xét xử những vụ kiện đ̣i bồi thường của các nạn
nhân bạo hành chính trị trên toàn thế giới.