TỔ QUỐC
Số 10
30-1-2007
Bán nguyệt san
thông tin và nghị luận.
Liên lạc :
------------
Hội Đồng Cố Vấn
Nguyễn Minh Cần - Phạm Quế Dương – Nguyễn Thanh Giang – Nguyễn Hộ - Nguyễn Gia Kiểng – Bùi Tín
-------------
Ban biên tập
Nguyễn Phương Anh - Phạm Quế Dương – Phạm Hồng Đức - Nguyễn Thanh Giang – Phan Thế Hải – Nguyễn Văn Hiệp - Vương Quốc Hoài - Nguyễn Chính Kết - Trần Lâm – Tuệ Minh - Lê Chí Quang - Vũ Cao Quận – Huỳnh Tâm - Trần Khải Thanh Thủy - Trương Nhân Tuấn – Phạm Việt Vinh.
Trang nhà:
Thư ṭa soạn
Một chỉ dấu đáng mừng
Cuộc tiếp xúc giữa giáo hoàng Benedict 16 và thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, dù chỉ kéo dài 25 phút, cũng là một bước tiến quan trọng trong tiến tŕnh b́nh thường hóa quan hệ giữa chính quyền Việt Nam và ṭa thánh Vatican.
Cho đến nay, trong hơn một nửa thế kỷ tại miền Bắc và hơn 30 năm trên cả nước, chế độ cộng sản Việt Nam chỉ coi Vatican như một thế lực thù địch. Sau ngày 30-4-1975 họ cấm tất cả những tạp chí của giáo hội Thiên Chúa Giáo ở miền Nam, bắt giam một số đông các linh mục, kiểm soát chặt chẽ các chủng viện, ngăn cản việc phong chức các linh mục. Thái độ thù địch này vô lư v́ giáo hội Thiên Chúa Giáo Việt Nam, ít nhất từ sau 1975, đă ư thức được rằng họ chỉ là một tôn giáo thiểu số và chỉ mong được yên ổn để giữ đạo và hành đạo. Họ đă tỏ ra rất nhân nhượng, có thể nói là quá nhân nhượng, không phản đối khi nhiều linh mục bị bắt giam hay khi nhiều tài sản của giáo hội bị tịch thu. Cùng lắm họ chỉ đưa ra những thỉnh nguyện rất khiêm tốn. Thái độ khiêm tốn này, rất khác với lập trường ôn ḥa nhưng kiên quyết của Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất Việt Nam, với thời gian và những biến chuyển trên thế giới đă dần dần đem lại kết quả.
Quan trọng hơn việc b́nh thường hóa quan hệ với ṭa thánh Vatican, cuộc thăm viếng này đánh dấu một thay đổi tâm lư. Vatican không phải là một thế lực chính trị và kinh tế, nó trước hết là một biểu tượng của nền văn minh phương Tây. Cuộc thăm viếng này chứng tỏ chính quyền cộng sản Việt Nam đă bắt đầu có một cái nh́n khác với các giá trị phương Tây.
Cũng có thể đây chỉ là một thủ thuật của ông Nguyễn Tấn Dũng trong mục đích vừa tạo một h́nh ảnh bớt xấu hơn cho chế độ, vừa gây một biến cố ngoạn mục lôi kéo sự chú ư của dư luận trong nước và làm quên đi những lời hứa đă khiến ông được nhiều cảm t́nh, nhưng ông đă không thực hiện, thí dụ như giải quyết nhanh chóng các vụ án tham nhũng lớn.
Nhưng dù thủ thuật hay không th́ phóng lao cũng vẫn phải theo lao. Nguyễn Tấn Dũng và ban lănh đạo cộng sản sẽ khám phá ra rằng tiến tŕnh cởi mở và hội nhập với thế giới văn minh, mà một hệ luận quan trọng là từng bước chấp nhận sinh hoạt chính trị dân chủ, không thể đảo ngược được.
Ban biên tập
Nhân hai nước Việt-Trung hợp-tác khai-thác Vịnh Bắc-Việt.
Trở lại những sai lầm của nhà nước CSVN trong việc phân-định lại vịnh Bắc-Việt với Trung-Quốc
Trương Nhân Tuấn
Tuần vừa qua, liền sau khi bộ Ngoại-Giao hai nước Việt-Nam và Trung-Quốc ra công-hàm phản-bác lẫn nhau về chủ-quyền biển Đông và hai quần đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa, hai bên lại công-bố việc hợp-tác khai-thác dầu-khí tại một số vị-trí nằm vắt ngang đường phân-định biên-giới trong vịnh Bắc-Việt1. Tin này được BBC đăng-tải hôm 8 tháng 1 năm 2007. Vấn-đề chủ-quyền Hoàng-Sa và Trường-Sa sẽ được viết qua một bài khác nhưng rơ-ràng, những vùng sẽ được khai-thác sắp tới trong vịnh Bắc-Việt, lư ra hoàn-toàn thuộc về Việt-Nam, nếu Việt-Nam không kư lại (hay được kư lại trên căn-bản công-bằng của Công-Ước Quốc-Tế 1982 về Biển) Hiệp-Định Phân-Định Vịnh Bắc-Bộ. Hiệp-Định này do bộ-trưởng Ngoại-Giao Nguyễn Dy Niên kư với ông Đường Gia Triền ngày 25 tháng 12 năm 2000 và được Chủ-Tịch Nước Trần Đức Lương kư Lệnh số 16-2004/L/CTN ngày 24 tháng 6 năm 2004 nhằm công-bố Nghị-Quyết về việc phê-chuẩn hiệp-định.
Bài này sẽ phân-tích những sai-lầm và hậu-quả việc phân-định vịnh Bắc-Việt của nhà-nước CSVN.
Nhà-nước CSVN đă phạm nhiều sai lầm trong lúc phân-định lại Vịnh Bắc-Việt với Trung-Quốc.
Bản đồ 1 : vùng trầm tích sông Hồng.
1. Sai lầm về nhận-định :
Trả lời phỏng-vấn báo báo Thanh-Niên ngày 1 tháng 7 năm 2004 về Hiệp-Định Phân-Định Vịnh Bắc-Việt, ông Nguyễn Dy Niên cho biết vịnh Bắc-Việt chưa được phân-định. Nguyên-văn như sau :
« Từ trước tới nay, Việt Nam và Trung Quốc chưa tiến hành phân định Vịnh Bắc Bộ. Điều này xuất phát từ thực tế khách quan là từ những năm 50 của thế kỷ XX trở về trước luật biển quốc tế chưa phát triển, các quốc gia ven biển thời kỳ đó chỉ có chủ quyền đối với lănh hải rộng 3 hải lư và toàn bộ vùng biển nằm ngoài phạm vi lănh hải được coi là biển quốc tế, không thuộc chủ quyền của bất kỳ quốc gia nào. Trong bối cảnh đó, Công ước Pháp - Thanh năm 1887 chỉ tập trung giải quyết vấn đề hoạch định biên giới trên đất liền giữa hai nước và vấn đề quy thuộc chủ quyền của mỗi nước đối với các đảo ở khu vực cửa sông Bắc Luân trong Vịnh Bắc Bộ.
Trước đó, Thứ-Trưởng Lê Công Phụng cũng có nhận-định tương-tự qua buổi trả lời phỏng-vấn VASC Orient ngày 2 tháng 2 năm 2002.
Nhận-định của ông Nguyễn Dy Niên và Lê Công Phụng có hai điểm sai : không đúng với sự thật lịch-sử và không phù-hợp với thực-tế của Luật quốc-tế về Biển.
1.1. Không đúng với sự thật lịch-sử :
Theo Công-Ước Pháp-Thanh 1887 về phân-định Biên-Giới giữa Tonkin (Bắc-Kỳ) và Trung-Hoa, vịnh Bắc-Việt đă được phân-định. Đường biên-giới phân-chia lănh-hải được xác-định như sau : Les îles qui sont à l’est du méridien de Paris 105° 43’ de longitude est, c’est-à dire de la ligne nord-sud passant par la pointe orientale de l’île de Tch’a-Kou ou Ouan-chan (Tra-Co) et formant la frontière, sont également attribués à la Chine. Les îles Go-tho et les autres îles qui sont à l’ouest de ce méridien appartiennent à l’Annam... » ; tạm dịch là : Những đảo ở về phía Đông của đường kinh-tuyến Paris 105° 43’ kinh-độ Đông, có nghĩa là đường thẳng Bắc-Nam đi qua đông-điểm của đảo Tch’a-Kou hay Ouan-Chan (Trà-Cổ) và tạo thành đường biên-giới, được giao cho Trung-Hoa. Các đảo Go-Tho và những đảo khác ở về phía Tây của đường kinh-tuyến nầy th́ giao cho An-Nam.
Bản đồ 2 : một góc bản đồ đính kèm công ước 1887.
Đoạn văn này có hai ư-nghĩa : 1/ xác-định chủ-quyền các đảo trong vịnh. Các đảo phía Đông của đường kinh-tuyến Paris 105° 43’ th́ thuộc về Trung-Hoa, ở phía Tây th́ thuộc về Việt-Nam. Đảo Bạch-Long-Vĩ ở phía Tây của đường này nên thuộc chủ-quyền của Việt-Nam. 2/ xác-định đường biên-giới trong vịnh. Nó là một đường thẳng Bắc-Nam, bắt đầu từ đông-điểm đảo Trà-Cổ và chấm dứt tại giao-điểm của đường này với đường nối cửa Vịnh.
Ư nghĩa thứ 2 « xác-định đường biên-giới » được tŕnh-bày cụ-thể trên bản-đồ đính-kèm Công-Ước. Trên bản-đồ ta thấy ḍng ghi-chú :
« Le méridien de Paris 105° 43’ qui passe par la pointe orientale de l’ile Tra-Co, forme la frontière à partir du point où s’est arrêté le traité de la convention ». Tạm dịch : Đường kinh-tuyến Paris 105 độ 43 phút đi qua đông-điểm của đảo Trà-Cổ, làm thành đường biên-giới bắt đầu tại điểm mà điều-ước của Công-Ước chấm dứt.
Cho thấy là sau khi các điều-ước của công-ước phân-định biên-giới trên đất liền chấm dứt (tại đông-điểm đảo Trà-Cổ), đường kinh-tuyết Paris 105° 43’ tiếp-nối và làm đường biên-giới để phân-chia đảo và vùng biển.
Rơ-ràng Công-Ước 1887 đă phân-định Vịnh Bắc-Việt.
1.2. Không phù-hợp với thực-tế của Luật quốc-tế về biển.
Quan-niệm về quyền chủ-quyền trên biển chỉ mới có vào thế-kỷ 20. Theo 3 của công-ước 1982 về Biển, lănh-hải của mỗi nước được xác-định không quá 12 hải-lư. Nhận-định của ông Nguyễn Dy Niên như sau : « Vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ, mà cụ thể là phân định lănh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh giữa Việt Nam và Trung Quốc, chỉ được đặt ra sau khi có sự phát triển tiến bộ của luật biển quốc tế từ giữa những năm 50 của thế kỷ trước trở lại đây. Theo quy định của luật biển quốc tế hiện đại, quốc gia ven biển được hưởng lănh hải rộng tối đa 12 hải lư, vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lư và thềm lục địa rộng tối đa 350 hải lư tính từ đường cơ sở hoặc cách đường đẳng sâu 2.500m một khoảng cách không quá 100 hải lư. Do bờ biển hai nước vừa kế cận vừa đối diện nhau, nơi rộng nhất không đến 200 hải lư, nên các vùng biển và thềm lục địa của hai nước trong Vịnh đều bị chồng lấn lên nhau, cần phải được phân định để xác định rơ ràng biên giới lănh hải cũng như ranh giới vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước. »
Nhưng không phải v́ vậy mà công-ước 1887 không có hiệu-lực trên biển.
Điều 15 của Công-Ước 1982 Luật về Biển như sau :
Article 15 : « Délimitation de la mer territoriale entre Etats dont les côtes sont adjacentes ou se font face :
Lorsque les côtes de deux Etats sont adjacentes ou se font face, ni l'un ni l'autre de ces Etats n'est en droit, sauf accord contraire entre eux, d'étendre sa mer territoriale au-delà de la ligne médiane dont tous les points sont équidistants des points les plus proches des lignes de base à partir desquelles est mesurée la largeur de la mer territoriale de chacun des deux Etats. Cette disposition ne s'applique cependant pas dans le cas où, en raison de l'existence de titres historiques ou d'autres circonstances spéciales, il est nécessaire de délimiter autrement la mer territoriale des deux Etats. » Tạm dịch : « Phân-định lănh-hải giữa hai quốc-gia kế-cận hay đối-diện. Khi hai quốc-gia kế-cận hay đối-diện, không một quốc-gia nào được quyền mở rộng lănh-hải quá đường trung-tuyến mà mọi điểm trên đây cách đều những điểm gần nhất của các đường cơ-bản, từ những đường này đo chiều rộng lănh-hải mỗi nước, ngoại trừ có sự thoả-thuận riêng giữa hai nước. Điều-lệ này không áp-dụng trong trường-hợp có sự hiện-hữu những văn-kiện lịch-sử hay những trường-hợp đặc-biệt, việc phân-định lănh-hải v́ thế phải được thực-hiện bằng một cách khác. »
Chúng ta thấy điều 15 đă dự-trù một ngoại-lệ, đó là trường-hợp những vùng biển đă có chủ, được xác-nhận qua một « titre de souveraineté » văn-kiện chứng-nhận chủ-quyền. Điều này cho phép ta kết-luận rằng luật quốc-tế về biển công-nhận sự hiện-hữu những văn-kiện liên-quan đến quyền chủ-quyền trong một vùng biển. Công-Ước 1887 là văn-kiện chứng-minh chủ-quyền của Việt-Nam và Trung-Hoa trong vịnh Bắc-Việt. Vịnh này được chia cắt bằng đường kinh-tuyến đông Paris 105° 43’.
Ông Nguyễn Dy Niên đă giải-thích điều 15 như sau : « Đối với lănh hải, Công ước Luật biển năm 1982 (Điều 15) quy định các quốc gia không có quyền mở rộng lănh hải quá đường trung tuyến mà mọi điểm nằm trên đó cách đều các điểm gần nhất của các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lănh hải của mỗi quốc gia, trừ khi có thỏa thuận ngược lại. Tuy nhiên, nếu có những danh nghĩa lịch sử hoặc các hoàn cảnh đặc biệt khác, ranh giới lănh hải của hai quốc gia cần phân định một cách khác trên cơ sở thỏa thuận. »
Ông Nguyễn Dy Niên đă hiểu sai và giải-thích hoàn-toàn sai điều 15. « Những danh-nghĩa lịch-sử » như ông Niên nói không rơ ràng ; « titre historique » của điều 15 là « titre de souveraineté », tức là văn-kiện chứng-nhận chủ-quyền.
Điều này cho thấy, mặc dầu vấn-đề chủ-quyền trên biển của một quốc-gia chỉ được quốc-tế công-pháp công-nhận từ thập-niên 50, nhưng nó vẫn công-nhận « lănh-hải » của một quốc-gia nếu quốc-gia này chứng-minh được cái « titre de souveraineté » văn-kiện chứng-nhận chủ-quyền thuộc về nước ḿnh.
2. Sai-lầm về phân-định :
Việc phân-chia Vịnh Bắc-Việt theo Hiệp-Ước 2000 th́ không đặt trên căn-bản công-bằng của Luật quốc-tế về Biển cũng như theo thực-tiễn quốc-tế mặc dầu Ông Nguyễn Dy Niên cho biết : «hai bên đă thống nhất và căn cứ vào luật pháp và thực tiễn quốc tế, đặc biệt là các nguyên tắc và quy định của Công ước của LHQ về Luật biển năm 1982 mà cả hai nước đều là thành viên để giải quyết vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ. Ông Lê Công Phụng cũng phát-biểu tương-tự trước đó : « Chúng ta cùng với Trung Quốc đàm phán dựa vào các cơ sở sau: Một là Công ước quốc tế về Luật Biển năm 1982, mà cả ta và Trung Quốc đều tham gia kư kết. Thứ hai, chúng ta căn cứ vào điều kiện tự nhiên của Vịnh Bắc Bộ và quan trọng nhất là địa lư về phía Việt Nam và về phía Trung Quốc và nguồn lợi trong vịnh như thế nào để phân định. »
H́nh dưới : bản đồ phân định vịnh Bắc Việt theo hiệp ước tháng 12 năm 2000.
- Quan-sát bản-đồ phân-định theo hiệp-ước 2000, ta thấy điểm 10, việc phân-chia không công-bằng. Lư ra nó phải ở xa hơn theo hướng Đông-Bắc, cách đều hai đảo Vị-Châu của Trung-Quốc và Bạch-Long-Vĩ của Việt-Nam. Ở điểm này người ta chỉ ghi-nhận ảnh-hưởng của hai đảo Vị-Châu và Tà-Dương của Tàu mà bỏ qua hiệu-lực của đảo Bạch-Long-Vĩ của Việt-Nam theo điều 121 của Công-Ước 1982 về Biển.
- Các điểm 12, 13, 14, 15, 16 17 18 19 đều không cách đều với các điểm gần nhất trên hai bờ biển Hải-Nam và Việt-Nam như theo điều 15 luật Biển 1982. Các điểm nầy đều lấn sang Việt-Nam nhiều hải-lư.
- Điểm 21, cho thấy đảo Cồn-Cỏ hoàn-toàn không có hiệu-lực như định-nghĩa của điều 121 của Công-Ưóc về Biển 1982.
Điều thứ 121 của Công-Ước về Biển 1982 định-nghĩa về đảo như sau : 1. Une île est une étendue naturelle de terre entourée d'eau qui reste découverte à marée haute. (Đảo là một dải đất tự-nhiên, có nước bao-bọc chung-quanh và không bị nước phủ lúc thủy-triều lên)
2. Sous réserve du paragraphe 3, la mer territoriale, la zone contiguë, la zone économique exclusive et le plateau continental d'une île sont délimités conformément aux dispositions de la Convention applicables aux autres territoires terrestres. (Một đảo có hải-phận, vùng tiếp-cận, vùng kinh-tế độc-quyền và thêm lục-địa riêng, ngoại trừ điều-kiện ghi dưới phần 3)
3. Les rochers qui ne se prêtent pas à l'habitation humaine ou à une vie économique propre, n'ont pas de zone économique exclusive ni de plateau continental. (Những băi đá (cồn đá) mà người ta không thể sinh-sống, hoặc tạo một nền kinh-tế tự-tại th́ không có vùng kinh-tế độc quyền cũng như không có thềm lục-địa).
Đảo Bạch-Long-Vĩ cũng như đảo Cồn-Cỏ là những « dải đất tự-nhiên, có biển bao-bọc, không bị nước phủ khi thủy-triều cao », có dân sinh-sống và có một nền kinh-tế tự-túc là du-lịch, trồng-trọt và đánh cá. Các đảo này tương-tự như các đảo Hải-Nam, Vị-Châu, Tà-Dương… của Trung-Quốc.
Trên căn-bản pháp-lư nào các đảo của Trung-Quốc được hưởng mọi đặc-quyền như lănh-hải, vùng tiếp-cận, vùng kinh-tế độc-quyền, thềm lục-địa…, trong khi các đảo của Việt-Nam, cũng là đảo, th́ lại không ? Theo Luật Quốc-Tế về biển th́ không có một điều-khoảng nào cho phép một đảo nầy có nhiều đặc-quyền hơn một đảo khác.
Ông Nguyễn Dy Niên cho rằng Hiệp-Định 2000 được đặt trên căn-bản « luật-pháp và thực-tiễn quốc-tế ». Điều nầy không hoàn-toàn đúng.
3/ Thiệt hại : So-sánh đường biên-giới theo Công-Ước 1887 và đường phân-định theo Hiệp-Ước 2000, Việt-Nam bị thiệt-hại khoảng 11.000 km² lănh-hải. Nhưng điểm quan-trọng, nh́n lên bản-đồ, vùng biển nhượng cho Trung-Quốc nằm trên vùng trầm-tích Sông Hồng, tức là vùng có triển-vọng có mỏ dầu-khí.
Để ư, nếu phân-chia theo Luật quốc-tế về Biển 1982, ta thấy Việt-Nam sẽ không bị thiệt-hại nhiều đến như vậy. Các điểm 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18 không ở trên vị-trí phải có của nó nếu được phân-chia công-bằng theo tập-tục quốc-tế cũng như theo Luật quốc-tế về Biển 1982.
Trả lời phỏng-vấn, ông Lê Công Phụng tiết-lộ một điều quan-trọng : « Với suy nghĩ của một người Việt Nam, mà đặc biệt là người trực tiếp tham gia, chúng tôi cho rằng càng để lâu th́ càng khó. ».
V́ sao lại « càng để lâu càng khó ? » Không lẽ càng để lâu Luật quốc-tế về Biển sẽ thay-đổi theo chiều hướng bất-lợi cho Việt-Nam ? Không lẽ để lâu sẽ mất nhiều hơn ? Điều không thể bỏ qua là Công-Ước 1887 vẫn c̣n hiệu-lực. Tại sao Việt-Nam không đưa vụ này ra một ṭa-án trọng-tài phân-xử theo luật-lệ và tập-quán quốc-tế ? Kư-kết này đă làm cho Việt-Nam mất 11.000km² lănh-hải.
Điều này xác-nhận Trung-Quốc đă có áp-lực với phía Việt-Nam trong lúc thương-thảo và Luật quốc-tế về Biển (Trung-Quốc và Việt-Nam đều có kư) đă không được áp-dụng trong lúc phân-định. V́ thế đây là một hiệp-ước bất b́nh-dẳng, một bên kư-kết bị áp-lực của phía bên kia trong lúc kư-kết.
Vịnh là nơi chứa đựng nhiều tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là hải sản và dầu khí. Nh́n lên bản-đồ ta thấy vùng nhượng cho Trung-Quốc (hay Trung-Quốc áp-lực để lấy ?) là vùng giữa của túi trầm-tích sông Hồng, tức là vùng có triển-vọng dầu mỏ nhất.
Hiện nay các công-ty dầu-khí hai bên chuẩn-bị thăm-ḍ và khai-thác các lô nằm vắt trên đường biên-giới. Giả-sử việc thăm-ḍ thất-bại, phía bên Trung-Quốc không lỗ nhiều v́ chia hai phần chi-phí với Việt-Nam. Nhưng ngược lại, nếu các lô này có mỏ dầu hay khí đốt quan-trọng, không ai có thể lường được thái-độ của phía Trung-Quốc lúc đó. Họ có nhiều lư-do cũng như thủ-thuật để chiếm-hữu các mỏ này và độc-quyền khai-thác.
4/ Kết-luận :
Một nhà-nước độc-tài luôn đem lại tai-hại và tai-họa cho dân và nước. Họ có thể rất hung-dữ và ác-độc với nhân-dân nhưng lại tỏ ra nhún-nhường đến mức khiếp-nhược trước ngoại bang. Phân-định biên-giới trên đất liền đă làm cho Việt-Nam mất nhiều phần đất quan-trọng. Việc phân-định vịnh Bắc-Việt làm cho Việt-Nam mất 11.000km², một vùng biển mà thềm lục-địa của nó chứa nhiều khoáng-sản quí-báu. Nhưng hai việc phân-định trên đây xem vậy mà không phức-tạp. Khó-khăn c̣n ở tương-lai. Đó là vấn-đề đ̣i lại chủ-quyền quần-đảo Hoàng-Sa, khẳng-định chủ-quyền quần-đảo Trường-Sa và phân-định lănh-hải biển Đông với nhiều nước chung-quanh.
Người viết cho rằng, nếu t́nh-trạng độc-tài, bưng-bít vẫn c̣n tiếp-diễn như hiện nay, rất có thể Việt-Nam sẽ mất rất nhiều, thiệt-hại rất nhiều, nhiều hơn trăm, ngàn lần thiệt-hại đă xảy ra do hai hiệp-ước phân-định biên-giới trên đất liền (30 tháng 12-1999) và phân-định lănh-hải trong vịnh Bắc-Việt (25 tháng 12-2000).
Trương Nhân Tuấn
Lại nói về
chống tham nhũng
Đỗ Việt Sơn
Tham nhũng nói “ chống ”quá nhiều
Nhưng sao “Quốc nạn :” sớm chiều vẫn tăng
Ai ai cũng nói công bằng
Mà nay tham nhũng bất công ngập tràn
Bởi quan chỉ nói không làm
Cho nên mới có lắm quan lộng hành
Người mua chức , kẻ bán danh
Quan nha ức hiếp dân lành đă lâu
Đời thường bao chuyện nhức đầu
Phân nhà, chia đất, đấu thầu, đều xơi
Điện đường, trường, trạm khắp nơi
Thi công, xây dựng bao người đều ăn
Đền bù nhà đất có phần
Phần thày, phần tớ, phần dân chuyển nhà
Bây giờ quan chức khác xa
Tư sản, địa chủ cũng thua họ rồi
Nhà lầu, xe xịn, bể bơi
Đất vài ba mẫu sống đời xa hoa
Tây, Tàu, Nhật, Mỹ, đều qua
Bảo kê ăn đút, quan toà biết không ?
Chống tham nhũng, chống tới cùng
Phải làm triệt để cho ḷng dân tin
Xin đừng nương nhẹ tham quan
Tử h́nh một số mới an ḷng người
Của ch́m, của nổi một thời
Tịch thu toàn bộ cho đời soi chung
Đấu tranh kiên quyết tới cùng
Nếu không chế độ coi chừng khó yên
Tháng 7- 2003
Đỗ Việt Sơn
Lăo thành cách mạng
Đă đến lúc cần lên tiếng về
chủ nghĩa cơ hội trong phong tràodân chủ Việt Nam
Trung Hiếu
Không ai có thể phủ nhận những thành quả phong trào dân chủ Việt Nam đạt được trong những năm qua, đặc biệt là năm 2006. Phong trào đề cập trong bài viết này được hiểu là nỗ lực chung của anh em dân chủ trong nước cũng như hải ngoại, không dành riêng cho tổ chức cùng tên mà GS Hoàng Minh Chính đă tuyên bố thành lập vào cuối năm 2004 tại Hoa Kỳ.
Năm 2006 ghi nhận sự nỗ lực bền bỉ của anh chị em Khối 8406 trong việc vận động, kêu gọi các tầng lớp nhân dân vượt qua sợ hăi, đến với tổ chức ḿnh ngày càng nhiều. Từ trong nỗ lực bền bỉ đó, Khối 8406 đă lần lượt cho ra đời Đảng Thăng Tiến Việt Nam, Liên minh dân chủ và nhân quyền Việt Nam. Cùng với Khối 8406, Đảng Dân chủ Việt Nam (XXI) trong năm qua đă đến với “dân oan”, bước đầu tạo ra được h́nh ảnh của đảng trong một bộ phận quần chúng, làm cho CSVN phải suy nghĩ, t́m cách đối phó. Vượt qua những trở ngại từ phía chính quyền, cuối cùng Công đoàn độc lập cũng đă ra đời, tạo ra được tiếng nói nhất định trong những nổ lực bảo vệ quyền lợi cho công nhân của những nhà dân chủ trẻ tuổi Nguyễn Khắc Toàn, Trần Khải Thanh Thủy, Lê Trí Tuệ, Nguyễn Phương Anh, Bạch Ngọc Dương... Cuối năm 2006, chính quyền cảm thấy lo ngại bị tố cáo vi phạm dân chủ nhân quyền, tự do tôn giáo trước dư luận trong nước và quốc tế bởi ủy ban nhân quyền Việt Nam đă chính thức công bố thành lập từ sáng kiến của các anh chị dân chủ trẻ tuổi Hà Nội. Như vậy, từ nay “dân oan”, công nhân bị chủ ức hiếp, công dân bị tước đoạt các quyền tự do cá nhân đă có chỗ dựa, gửi gắm, đó là phong trào dân chủ Việt Nam - một lực lượng chính trị mới tại Việt Nam đang “ló hiện xa xa”.
Về vấn đề này, nhà báo lăo thành Bùi Tín, lăo thành dân chủ Nguyễn Minh Cần đă đề cập sâu qua các bài viết “Mười hai sự kiện làm phấn chấn các chiến sĩ dân chủ trong và ngoài nước” và “Mùa xuân dân tộc ló hiện xa xa”Có thể nói, trong 12 sự kiện mà nhà báo Bùi Tín nêu ra, sự kiện 1 & 2 gây được sự chú ư nhiều nhất bởi nó được minh chứng bằng số báo dân chủ điện tử, số tổ chức chính trị lần lượt “xé rào” ra đời trong năm 2006. Đó là bề nổi của phong trào, trong đó điều quan trọng nhất là sự im lặng của dân chúng đang dần được phá vỡ, đúng như ông Nguyễn Minh Cần nhận định “những người cùng khổ đă đứng lên”.
Từ những kết quả đáng khích lệ của phong trào dân chủ trong năm qua, chúng ta có quyền tự hào và tin tưởng về một “mùa xuân Dân tộc” đang dần được ló dạng. Là người làm công tác dân vận lâu năm đă nghỉ hưu, Trung Hiếu rất tâm đắc với cách dùng từ của lăo thành dân chủ Nguyễn Minh Cần “ló hiện xa xa” khi tiên liệu về “Mùa xuân Dân tộc”. Điều này có sự khác biệt nhất định so với ư kiến nhà báo Bùi Tín. Khi phân tích “12 sự kiện” mà phong trào đạt được trong năm 2006, nhà báo Bùi Tín đă rất “phấn chấn” làm cho người đọc cứ ngỡ là Dân chủ đích thực sẽ đến với dân tộc ta trong nay mai. Sở dĩ có sự khác biệt này là do nhà báo Bùi Tín đưa ra quá nhiều sự kiện, hai sự kiện đầu th́ hợp lư, số c̣n lại nặng về suy diễn chủ quan nhà báo. Bằng sự so sánh này, Trung Hiếu nh́n nhận ư kiến của nhà lăo thành dân chủ Nguyễn Minh Cần hợp lư hơn.
Dĩ nhiên có nhiều tổ chức chính trị xuất hiện và nhiều báo điện tử ra đời là tín hiệu đáng mừng. Vấn đề đặt ra ở đây là danh xưng nhiều hơn thủ lĩnh liệu có ổn không? Có không hiệu ứng kinh tế gió mùa? Và điều ǵ xẩy ra nếu có tổ chức “cuội” trong đó?
Trước hết nói về thủ lĩnh. Tất cả chúng ta đều vui mừng khi Kỹ sư Phương Nam Đỗ Nam Hải vừa là thủ lĩnh của Khối 8406, vừa là thủ lĩnh của Liên minh dân chủ nhân quyền Việt Nam. Tương tự, linh mục Nguyễn Văn Lư đồng thủ lĩnh của Khối 8406 và Đảng Thăng Tiến Việt Nam; cựu chiến binh Trần Anh Kim vừa là thủ lĩnh của Khối 8406, vừa thủ lĩnh của Hội Dân oan, là ủy viên TW Đảng Dân chủ Việt Nam (XXI); LS Nguyễn Văn Đài đồng lănh đạo Khối 8406, Liên minh dân chủ nhân quyền và UB Nhân quyền Việt Nam. Về lâu dài, chúng ta thấy nếu t́nh trạng này tiếp tục duy tŕ, dân chúng sẽ nảy sinh tâm lư lo sợ một khi CSVN chấp nhận cho đa đảng th́ họ không biết lựa chọn phe nào v́ nhiều phe quá, xă hội sẽ hỗn loạn. Do vậy, dân chúng tiếp tục giữ nếp suy nghĩ như cũ: bàng quan, cầu mong được yên ổn để làm ăn, nhiều đảng làm ǵ cho rách việc! Một bộ phận đảng viên, công chức tiến bộ muốn đến với phong trào, tiếp tục thất vọng khi tiếp cận tài liệu hoặc là hời hợt, hoặc trùng lắp quan điểm do vội vàng công bố lên mạng bởi một người vô danh nào đó đứng tên “đại diện”. Đây là lực lượng quan trọng, phong trào cần chú ư vận động một cách bài bản, có tri thức.
Về hiệu ứng “kinh tế gió mùa”. Chỉ trong một thời gian ngắn, kể từ tháng 4 năm 2006 khi kỹ sư Đỗ Nam Hải và linh mục Nguyễn Văn Lư công bố Tuyên ngôn dân chủ 118, sau này là Khối 8406 đến thời điểm diễn ra Hội nghị APEC 14, tháng 11 năm 2006, chúng ta chứng kiến nhiều tổ chức như Nhóm thanh niên dân chủ Sơn Hà, Đảng Thăng Tiến Việt Nam, Đảng Dân chủ nhân dân, Đảng Dân chủ Bách Việt, Liên minh dân chủ tại Hà Nội, Liên minh dân chủ tại phía Nam, Công đoàn Độc lập, Hội dân oan, Tương lai Việt,... lần lượt được công bố thành lập. Phân tích hiện tượng này, ta dễ dàng nh́n thấy nó như là liều thuốc kích thích những người hoạt động dân chủ, lợi dụng dân chủ từ một quan niệm dễ dăi: người nào đứng ra công bố đều gây được chú ư từ hải ngoại, việc công bố không mấy khó khăn, tài liệu chẳng đ̣i hỏi cao siêu, chỉ cần đối lập với chính quyền CSVN là được tung hô, cổ súy. Dễ dàng, lại không bị bắt, đó là những yếu tố tạo ra hiệu ứng giống như là “kinh tế gió mùa”, thấy kiếm lợi nhanh nên đua nhau làm, giống như dân t́nh Sài g̣n hiện nay đang đua nhau tham gia thị trường chứng khoán vậy. Hệ quả của nó là nhiều phần tử cơ hội lập tổ chức chỉ để kiếm tiền, hoặc lập ra để lấy danh, vụ lợi (?).
Phong trào dân chủ sẽ bị hướng lái theo kịch bản của Công an, nếu như họ có được một tỷ lệ “cuội” cần thiết trong các tổ chức ra đời trong năm 2006. Không có cơ sở để xác định được điều này, nhưng với hiệu ứng kinh tế gió mùa nêu trên chúng ta thấy việc khuyến cáo của ông Nguyễn Minh Cần là xác đáng. Tuy nhiên, đây không phải là nguyên nhân chính làm chia rẽ phong trào, nó chỉ là nguyên nhân bên ngoài tác động vào, hầu hết những người đấu tranh cho dân chủ đều là những người có bản lĩnh, có tri thức. Vậy đâu là nguyên nhân bên trong? Phải chăng chủ nghĩa cơ hội đă len lỏi vào phong trào? Làm thế nào để nhận diện?
Theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản khoa học xă hội ấn hành năm 1977, th́ “chủ nghĩa cơ hội” được định nghĩa: 1) Chủ trương chính trị ĺa bỏ con đường chân chính, lánh xa quần chúng để tùy cơ thỏa hiệp với quân thù. 2) Chủ nghĩa của những người không có chính kiến hẳn hoi, hễ có lợi là bám chặt lấy.
Như đă tŕnh bày ở trên, có không ít trường hợp sáng lập, đồng sáng lập, lănh đạo một lúc nhiều tổ chức, liệu có chính kiến hẳn hoi? Về mục tiêu, lư tưởng th́ có thể đồng nhất, nhưng cương lĩnh hành động của từng tổ chức khác nhau. Vậy cái ǵ đă thôi thúc họ lập nhiều tổ chức? Phải chăng họ không có khả năng làm lính, chỉ làm được thủ lĩnh? Lẽ thường, thủ lĩnh bao giờ cũng được nhiều quyền lợi hơn cấp dưới, bà con hải ngoại sẽ cung cấp cho họ nhiều tiền làm chi phí hoạt động. Rốt cuộc, họ chỉ là “Sĩ quan không quân”, quần chúng quay lưng với “quan” dân chủ. Phá vỡ được sự im lặng của quần chúng như thời gian gần đây là chuyện không đơn giản chút nào, anh em dân chủ đă phải nổ lực rất nhiều. Tuy nhiên, muốn được quần chúng đến ḿnh ngày càng nhiều, gắn bó với phong trào, anh em dân chủ phải nhận diện ra căn bệnh này để lên án, loại bỏ nó. Dành nhiều thời gian để nghiên cứu viết tài liệu công bố lập hết tổ chức này tổ chức khác, không chú trọng đến quần chúng, liệu các anh có là thủ lĩnh thực sự hay chỉ là con rối trước con mắt mọi người?
Tôi có cảm nhận chủ nghĩa cơ hội đă len lỏi trong phong trào dân chủ Việt Nam từ nhiều năm nay, cái mốc bùng phát của nó có thể từ sau khi GS Hoàng Minh Chính qua Mỹ chữa bệnh trở về. Sự “xé rào” cho ra đời nhiều tổ chức, đă gây ra nhiều hiệu ứng trong dân chúng: số bị phẫn uất (“dân oan”, công nhân đ́nh công, công dân bị chiếm đoạt các quyền tự do cá nhân,...) truyền tai nhau về một ngọn cờ nào đó xuất hiện mà họ nghe được th́ hướng theo, càng nhiều cờ xuất hiện, quần chúng càng bị xé lẻ. Bà con ở hải ngoại cũng bị rối tung, tổ chức này ủng hộ Đỗ Nam Hải, người kia th́ ủng hộ Trần Khuê,... chẳng biết đâu mà lần. Về thủ lĩnh cũng vậy, có nhiều loại: có người dân chủ chân chính nhưng quá nóng vội trong việc công bố tổ chức; có người công bố để được chú ư, và nguy hiểm nhất là Công an có đất để cho người len lỏi vào phá phách phong trào. Rơ ràng, chủ nghĩa cơ hội đă làm tổn thương niềm tin, gieo rắc sự nghi kỵ, ganh đua, tạo ra sự liên kết dối trá trong phong trào. Nếu t́nh trạng này không được nh́n nhận một cách nghiêm túc, có thiện chí của từng cá nhân, phong trào dân chủ măi là “Mùa xuân Dân tộc ló hiện xa xa”, ngày càng xa vời quần chúng. Hẳn rằng việc nhận diện nó chẳng dễ dàng chút nào, nhưng đă đến lúc phải lên tiếng. Theo tôi, để nhận diện được chúng, ta nên bắt đầu từ con người, không cần quan tâm nhiều đến tuyên ngôn, tuyên bố thành lập bởi nhiều lúc “Cuội” tuyên bố hay hơn thật. Chúng ta cần có cái nh́n thấu đáo về người đứng ra thành lập tổ chức, xem họ là ai, đáng tin cậy hay không, họ có thế lực nào phía sau hay không.
Thiết nghĩ, đă đến lúc chúng ta cần lên tiếng vạch trần, loại bỏ chủ nghĩa cơ hội trong phong trào dân chủ để cho Dân chủ như là “Mùa xuân Dân tộc” sớm đơm hoa kết trái trên đất nước chúng ta.
Đôi điều trăn trở về phong trào dân chủ nước nhà, mạo muội gửi đến các bạn, mong được chia sẻ.
Sài G̣n những ngày cuối năm 2006
Trung Hiếu
Nhàn đàm
Ai gọi ai bằng “cụ”?
Nguyễn Xuân Nghĩa
Trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, Tào Tháo là nhân vật nổi tiếng gian hùng. Lần cầm quân đi đánh Trương Lỗ, gặp phải đường sá gập ghềnh, thuỷ thổ không minh, địa lư không tường; lại không có đủ nước uống nên quân Tào khát cháy cả họng. Kinh hăi trước việc quân luật nghiêng ngả, tả hữu bất an, Tháo bèn nghĩ ra một mẹo, giơ roi chỉ thẳng về phía trước, bảo rằng đi vài dặm nữa là có một rừng mơ. Đang khát, nghe có rừng mơ, quân sỹ phấn chấn hẳn lên, bước đi như bước chạy; đi măi rừng mơ chẳng thấy đâu; đi tiếp nữa th́ quân Tào cũng đến được nơi có suối.
Sáu mươi năm tiếp quản đất nước, ĐCSVN hứa đưa dân tộc ta đi đến “rừng mơ” CNCS. Đảng công hữu hoá ruộng đất của nông dân, quốc hữu hoá hầm mỏ, xí nghiệp, tài sản của tư sản… Hàng chục vạn sinh mạng Con Lạc Cháu Hồng nằm lại bên đường trong cải cách ruộng đất để “Quư hồ tinh, hơn quư hồ đa”; Hàng triệu sinh mạng rải đường trong cuộc nội chiến Bắc-Nam, cũng ngần ấy gịng giống ly hương, hoặc tan thây trong bụng cá để Đảng tiếp tục dẫn phần “tinh tuư” c̣n lại của dân tộc đi tiếp. Dân ta tin vài dặm nữa là có “rừng mơ”, một ḷng một dạ cắm cúi đi theo cái roi của ĐCSVN như đàn dê, cừu đi theo cái roi của chủ chăn. Đi măi chẳng thấy “rừng mơ” nào cả.. Đi tiếp nữa té ra quay về thời trước cải cách ruộng đất, thời trước công tư hợp doanh: ruộng đất trả về cho nông dân, xí nghiệp trả về cho tư hữu.
Tuy phải lừa bịp tướng sỹ nhưng Tào Tháo cũng đưa được tướng sỹ đến nơi có nước, rồi phá được Trương Lỗ, mở mang thêm bờ cơi cho nhà Nguỵ. C̣n ĐCSVN lại đưa nhân dân ta quay về điểm xuất phát, phí hoài 60 năm lịch sử và hàng triệu sinh mạng; không chỉ làm triều chính thối nát hơn, ḷng dân ly hận hơn mà c̣n để mất biển, mất đất cho Trung Quốc; ấy vậy mà vẫn cứ ĺ lợm lớn giọng định hướng XHCN.
Hậu sinh khả uư; so sánh Tào Tháo với ĐCSVN về lục thất (thất trung, thất hiếu, thất lễ, thất tín, thất nghĩa, thất trí *) ta thấy gian hùng này phải gọi ĐCSVN bằng “cụ”.
Nguyên Xuân Nghĩa.
(*) Thất trung: Đă không trung được với nguyên lư của chủ nghĩa Max (sở hữu nhà nước, chuyên chính vô sản…) lại không trung được với tổ quốc (để mất đảo, mất biển, mất đất cho Trung Quốc, xa rời nhân dân…) Đó là thất trung.
(*) Thất hiếu, thất nghĩa: Giết hại hàng vạn quần chúng vô tội trong cải cách ruộng đất, đàn áp, lưu đày văn nghệ sỹ, trí thức trong vụ án “ Nhân văn giai phẩm”; đẩy hàng triệu con em cả hai miền vào cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn- nồi da xáo thịt (1960-1975), đẩy hàng triệu công dân phải ly hương khắp thế giới sau năm 1975, bắt bớ cầm tù những cá nhân là cán bộ đảng bất đồng chính kiến, tạo phe phái bài trừ đồng chí đă cùng chung lưng đấu cật lúc gian khó, nguy nan, không bảo vệ được nhân dân trong vụ cảnh sát biển Truing Quốc bắn giết ngư dân Thanh Hoá… Đó là thất hiếu và thất nghĩa.
(*) Thất lễ: Đẩy xă hội vào cảnh hỗn loạn, xă hội đen, cá lớn nuốt cá bé, con đấu cha, em giết anh, học sinh đánh, giết thầy, cô giáo, quan ức hiếp dân, cửa quyền, lộng hành, trên bảo dưới không nghe… Đó là thất lễ.
(*) Thất tín: Hứa đưa nhân dân đến CNCS “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”; khi không làm được lại thay đổi mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xă hội công bằng, dân chủ, văn minh”; nhưng kết quả là dân đă không giàu, nước đă không mạnh, xă hội lại đầy ắp bất công, luật pháp bị cường quyền thao túng; lập ra Hiến pháp công nhận quyền lập hội, lập đảng, ra báo, tự do tư tưởng; kư vào công ước quyền con người của LHQ nhưng không thực hiện… Đó là thất tín.
(*) Thất trí: Thiếu sáng suốt, đưa chủ nghĩa Marx phi tự nhiên, phản khoa học vào đất nước, áp dụng công thức “kinh tế thị trường định hướng XHCN mâu thuẫn, không tưởng; mục đích là kéo dài chế độ độc tài đảng trị; bịt tai trước lời nói phải; không nhận ra xu hướng dân chủ hoá toàn cầu… Đó là thất trí.
Đảng cộng sản Việt Nam và
Luật pháp Việt Nam
Hoàng Hiếu Minh
Dưới thời phong kiến, bộ luật hoàn chỉnh, tiến bộ nhất của nước ta là Bộ Luật Hồng Đức thời vua Lê Thánh Tông. V́ vậy các triều đại sau chỉ căn cứ vào đó để trị nước chứ không có ǵ thay đổi, sửa sang đáng kể. Đời Nguyễn, vua Gia Long có làm một bộ luật mới, nhưng thực tế chỉ là sửa đổi, bổ sung một số điều khoản trong bộ luật Hồng Đức cho hợp với t́nh h́nh phát triển kinh tế-xă hội, chính trị… của thời đại mà thôi. Bộ luật này được thực hiện cho đến thời vua Bảo Đại. Sau đó được thay thế bằng bộ luật mới vào năm 1946 khi chính thể “dân chủ cộng hoà” của ông Hồ Chí Minh ra đời.
Nh́n vào mỹ từ “ Dân chủ cộng hoà” và có Hiến Pháp gần giống như hiến pháp của các quốc gia dân chủ trên thế giới, giới trí thức, giới văn nghệ sỹ, các tầng lớp người Việt có tri thức cả trong và ngoài nước rất tin tưởng vào một chế độ lấy Pháp luật trị nước tại Việt Nam trong tương lai không xa.V́ thế bao nhiêu trí thức là người Việt đang sinh sống yên ổn ở nước ngoài rủ nhau hồi hương, đặng đem tri thức học được ở các thể chế dân chủ Pháp quyền phụng sự quốc gia. Nhưng tất cả đều vỡ mộng. Đặc biệt vào năm 1953 khi chủ tịch nước Hồ Chí Minh kư sắc lệnh 153/SL, điều 6; luật này đă giết oan hàng vạn công dân vô tội trong cải cách ruộng đất tại miền Bắc. Giai đoạn này, nhà nước CSVN đă bắt chước Trung Quốc tiến hành xử án đối với công dân đất nước là nông dân không theo một tŕnh tự nào cả. Đó là những vụ án có một không hai trên thế giới văn minh. Từ chánh án đến uỷ viên công tố đều có xuất xứ từ du kích hoặc bộ đội, văn hoá chưa qua bậc tiểu học, không qua đào tạo luật pháp, chỉ được “bồi dưỡng” về chủ trương, chính sách của đảng đối với nông thôn, đáo chuyển từ người địa phương này sang địa phương khác để xử án. Đó là những phiên toà đặc biệt không có luật sư cho bị cáo; quan toà không cho phép bị cáo tự bào chữa, chỉ được nhận tội chứ không được chối tội. Không cho bị cáo nói lời cuối cùng, tuyên án tử h́nh và thi hành bản án ngay trong một buổi. Sau khi Chánh án tuyên án cũng là lúc dân quân, du kích xông vào tử tội, nhét giẻ vào mồm, lôi xềnh xệch tử tội ra pháp trường là một băi cỏ gần đấy, trói vào cọc đă chôn sẵn, dân quân du kích lùi lại chục bước, giương súng và “đ̣m”. Điều luật này c̣n áp dụng đối với cả những người bất đồng chính kiến kéo dài đến năm 1968 mới có điều luật khác thay thế.
Nếu nghe theo quan điểm của đảng “Khép lại quá khứ, hướng đến tương lai” th́ ta thấy hiện nay trên toàn quốc, những đơn từ khiếu kiện, khiếu nại của công dân đối với các vụ án oan sai h́nh sự lẫn dân sự trong các cơ quan công quyền chất cao như núi. Những buổi tiếp dân kêu oan tại văn pḥng Quốc Hội, văn pḥng trung ương đảng, Chính phủ chưa bao giờ lại “đông vui” như bây giờ. Ra vườn hoa Mai Xuân Thưởng, nơi tiếp dân oan của các cơ quan công quyền cao nhất nước, ta bắt gặp hàng ngàn công dân từ đủ 64 tỉnh thành trong cả nước. Có những công dân bị oan sai đă viết tới 2.000 lá đơn, theo kiện hàng chục năm, nằm trên ghế đá Hồ Tây cạnh vườn hoa Mai Xuân Thưởng 4-5 năm mà vụ việc vẫn không cơ quan nào soi xét đến. Trong Hiến Pháp và Luật Pháp không có điều nào nói công dân không được khiếu kiện vượt cấp, không được khiếu kiện tập thể, đảng viên đảng cầm quyền không được khiếu kiện, nhưng ĐCSVN đă vượt trên tất cả với những chỉ thị vi hiến và vi luật. Thử hỏi khi quyền lợi đụng chạm đến một tập thể công dân lẽ nào tập thể công dân kia không khiếu kiện? Khi cấp dưới không chịu giải quyết, hoặc v́ tham nhũng hoặc v́ bè phái bao che xử không thoả đáng lẽ nào công dân không có quyền khiếu kiện lên cấp cao hơn để đề nghị xem xét lại?. Đảng viên trước hết có là công dân không? Lẽ nào công dân không được khiếu kiện khi gặp oan sai? Những câu hỏi đó chỉ có thể trả lời là: ĐCSVN đă “ ngồi xổm” trên Hiến Pháp và Luật pháp (lời của nhà hoạt động dân chủ trẻ tuổi, kỹ sư Bạch Ngọc Dương) để giữ cho bộ mặt đă quá nhem nhuốc của ḿnh không nhem nhuốc thêm nữa. Tuy vậy, ĐCSVN vẫn không ngăn được các phương tiện thông tin đại chúng (của đảng) hàng ngày thông tin đến dân chúng mặt sau tấm huân chương “công bằng, dân chủ văn minh” mà đảng tự trao cho đảng. Vụ án đất đai ở Đồ Sơn, Hải Pḥng hai năm rơ mười như thế, ảnh hưởng đến uy tín của đảng và chính quyền một thành phố lớn như thế, lại trong thời điểm đảng hứa hẹn với nhân dân đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng mà khi xử cả 3 bị cáo quan tham chỉ bị phạt cảnh cáo và đóng 50.000đ án phí. Tôi cứ phân vân, tại sao cả một bộ máy luật pháp Hải Pḥng gồm hàng trăm người, hàng chục cơ quan ăn lương của nhân dân lại ngớ ngẩn đến thế nhỉ? Đây chỉ là một vụ án điển h́nh nằm trong hàng trăm vụ điển h́nh khác xảy ra vài ba năm gần đây. C̣n kể đủ th́ không biết bao nhiêu. Tất cả các vụ án phường chèo như vậy chẳng qua là cán cân công lư đă bị các cấp của đảng bẻ cong. Cho nên chúng ta không lạ ǵ vụ án Tổng Cục 2 (dù xâm phạm nghiêm trọng đến uy tín của chính ĐCSVN và an ninh quốc gia mà vẫn được ém nhẹm “ngon lành”.
Lại có những vụ án nếu đảng không “ngồi xổm” trên pháp luật th́ đồng tiền hoặc ô dù “ngồi xổm”. Ta biết, khi xét xử một vụ án bao giờ cũng có 3 cơ quan vào cuộc: a/ cơ quan xét hỏi, hoàn chỉnh chứng cứ, hồ sơ và khởi tố; b/ Viện Kiểm Sát phê chuẩn cáo trạng của cơ quan điều tra; c/ Toà Án xét xử. Song nhiều vụ án, ngay từ đầu cơ quan điều tra đă làm sai lệch hồ sơ, viện Kiểm Sát cứ thế phê chuẩn, Toà Án cứ thế xử và quyết; hoặc cơ quan điều tra đúng, viện kiểm sát đúng, nhưng quan toà xử sai dẫn đến bản án không thuyết phục được đương sự, thân nhân đương sự, không thuyết phục được công luận; rồi nhân chứng, vật chứng, t́nh tiết mới lại xuất hiện… Thế là cả một hệ thống luật pháp phải làm lại từ đầu, tốn bao nhiêu tiền của của nhân dân. May mắn là nếu được xử lại, người bị oan c̣n được minh oan hoặc nhẹ tội, c̣n không mối hận oan ức đến hết đời không hoá giải được. Vụ tai nạn giao thông tại đường Láng – Hoà Lạc xử đi, xử lại đă 5 năm, hết sơ thẩm lại phúc thẩm mà vẫn dậm chân tại chỗ. Lư do là v́ ngay từ đầu cơ quan điều tra đă không làm đúng chức năng của ḿnh, hoặc do kém năng lực luật pháp, hoặc do “phong bao, phong b́” gây nên.
Nguyên nhân th́ nhiều. Theo tôi nó có hai nguyên nhân ở tầm vi mô. Đó là:
Trách nhiệm của bộ Giáo Dục - Đào Tạo, nơi quản lư các trường đại học, đào tạo ra những cán bộ nắm cán cân luật pháp. Ta nên biết rằng dưới các triều đại phong kiến, bộ Giáo Dục là bộ Lễ. Nó được tôn vinh vào bậc nhất trong các bộ. Ai đă đến Quốc Tử Giám, Văn Miếu th́ biết. Song bây giờ “Bộ Lễ” của chế độ CSVN lại là bộ tồi tệ nhất. Tôi xin trích nguyên văn mục chuyện thời sự của tác giả Xuân Hoa, đăng trên báo Pháp Luật, ra ngày 22/9/2006: “Thời gian gần đây nền giáo dục nước nhà có quá nhiều chuyện lùm xùm. Chỗ này giáo viên gạ t́nh đổi điểm. Chỗ kia hiệu trưởng lại là người cầm cờ cho cuộc thi “chạy trường” vô tiền khoáng hậu. Trường mẫu giáo anh hùng, các cô giáo “mẹ hiền” ăn bớt khẩu phần ăn của trẻ. Chỉ khổ cho vị tân Bộ trưởng chưa kịp xử lư chỗ này đă bục chỗ khác. Thậm chí c̣n bục ngay nơi cách pḥng Bộ Trưởng vài bước chân...” Các vị Chánh Án, Công Tố, Thẩm Phán… đều ở nơi này mà ra. Nơi đào tạo mà c̣n thế huống hồ ra xă hội tiếp xúc với nhiều cám dỗ.
Quốc nạn tham nhũng đă huỷ hoại phần c̣n lại tư cách, đạo đức của những vị nắm giữ cán cân công lư sau khi nơi đào tạo ra họ đă huỷ hoại phần đầu. V́ thế mà Phạm Sỹ Chiến, phó viện trưởng viện Kiểm Sát tối cao, Bùi Quốc Huy, trung tướng thứ trưởng bộ Công An, Dương Minh Ngọc, trưởng pḥng cảnh sát h́nh sự công an Tp H CM, Trần Trường Sơn, thẩm phán toà án tỉnh B́nh Dương… đều v́ đồng tiền mà từ vai tṛ người đi trị tội người khác đă trở thành kẻ bị trị tội.
Nhưng có một nguyên nhân chính để chúng ta kết thúc bài viết này. Từ khi lập nước, không chỉ nước ta mà đa số các quốc gia trên thế giới, dù là chế độ phong kiến thực dân, đế quốc… chưa có thể chế nào lấy nghị quyết, chỉ thị, công văn, giấy viết tay… của đảng và của các cán bộ đảng để trị nước thay cho pháp luật như ở Việt Nam ngày nay! Đó là nguyên nhân dẫn đến t́nh trạng quốc luật hỗn loạn, là nỗi nhục của luật pháp, của những người soạn thảo và thông qua các bộ luật nước ta dưới chế độ độc tài đảng trị.
Hoàng Hiếu Minh
CÂU ĐỐI TẾT ĐINH HỢI
Xướng, Hà Sỹ Phu :
Tổ quốc hỡi bay lên, Lợn đến, Đóng ĐINH vào lịch sử ?
Họa, Nguyễn Thanh Giang :
1 - Mác Lê trương chủ nghĩa, Chó cười, Tám BÍNH ( *) chẳng giầu sang!
2 - Giang sơn sao lụn bại, Rồng đi, Phú QUƯ bỏ nhân dân !
( * ) nhân vật trong Bỉ Vỏ của Nguyên Hồng.
Hăy thức tỉnh
Phạm Hồng Đức
Cha tôi là một lăo thành cách mạng, sau năm 1975, khi tôi 18 tuổi, tôi đă nói với cha tôi: "Những người cộng sản thật là ấu trĩ và mơ hồ. Các đảng cộng sản, chủ nghĩa cộng sản rồi sẽ bị những người cộng sản chống lại. Cha là người yêu nước có công đánh Pháp và thống nhất hai miền. Nhưng vô t́nh cha là người phá hoại đất nước, phá hoại thuần phong mỹ tục của dân tộc, phá hoại gia tộc, phá hoại con người"
Cha tôi hỏi: Sao con lại nói như vậy ?
Tôi trả lời: "Là con người th́ cac vấn đề tư hữu, gia đ́nh, tự do, tín ngưỡng là thuộc bản năng cố hữu, tự nhiên của con người. Chủ nghĩa cộng sản chống lại bốn đức tính tự nhiên đó, v́ vậy đă chống lại loài người. Chết con cũng không làm cộng sản"
Sự thật th́ lịch sử của các đảng cộng sản đă diễn biến đúng như lời tiên đoán đó của tôi.
Sau khi học hết lớp 10 tôi đă quyết định tự nghiên cứu triết học, chính trị, văn học. Sau hơn 10 năm nghiên cứu tôi đă kết luận: "Mác, Ăng Gen là những người ảo tưởng, tâm thần. Họ không hiểu ǵ về con người, xă hội, chính trị và kinh tế cả. C̣n Lê Nin, Mao Trạch Đông, StaLin, Đặng Tiểu B́nh, Pôn Pốt ..v.v đều là những kẻ háo danh, đầy tham vọng quyền lực nhưng lại tàn ác và ngu dốt.
Chính v́ vậy mà đất nước Việt Nam chúng ta hiện nay sau 76 năm ra đời, 52 năm cầm quyền của đảng cộng sản, hiện nay dù c̣n vẫn chuyên quyền, nhưng đảng đang đưa nước ta từng bước hoà nhập vào các nước văn minh và sự thực là đang đi theo chủ nghĩa tư bản. Nhưng nước ta hiện tại nếu so sánh với các nước phát triển, có nền dân chủ đa nguyên văn minh, th́ nước ta hiện có mấy nỗi nhục lớn sau:
+Là nước nghèo vào bậc nhất thế giới.
+Là nước có tham nhũng bậc nhất thế giới.
+Đất nước do suy yếu nên đảng đă phải nhường đất, nhường biển cho Trung Quốc. Hiện nay quần đảo Hoàng Sa Trung Quốc đă cướp, c̣n Trường sa th́ đang bị 5 nước xâu xé.
+Là nước mà đảng, nhà nước phải dựa và phụ thuộc vào Trung Quốc nên đảng đă luôn gọi những kẻ xâm lược, cướp nước của ḿnh là "đồng chí".
+Những người yêu nước thật sự trong và ngoài đảng tâm huyết với dân, với nước, nếu nói lên sự thật, nói lên t́nh cảnh đất nước và đ̣i hỏi tự do, dân chủ, nhân quyền, đa nguyên th́ bị đảng bắt tù hoặc quản chế, hoặc theo dơi, cấm đoán.
+Hiện nay quyền hành đất nước thật sự lại nằm trong tay những người đă về hưu nhưng c̣n nắm được công an, quân đội, tổng cục II. Những người đó là anh hoạn lợn chỉ học hết lớp 3 trường làng. C̣n người nữa không phải là đảng viên đảng cộng sản và trong quá khứ đă làm cai đồn điền, từng làm hại những người cộng sản chân chính. Chứ không phải nằm trong tay tổng bí thư, hoặc chủ tịch nước hay thủ tướng đương nhiệm.
+Những người cầm quyền lănh đạo đảng và đất nước không phải do dân trực tiếp bầu ra nhưng đảng vẫn gọi là "Chính quyền nhân dân". Kỳ thực là một chính quyền của một ê kíp Ma Phi a. V́ vậy những kẻ bất nhân không có tŕnh độ ǵ nhưng nhờ tài ăn cướp của dân đă trở thành các nhà tư bản đỏ kệch xù. Họ dùng tiền mua chức, mua quyền và được đảng, báo chí ca ngợi hết lời. Thật đúng như lời Đại tướng Vơ Nguyên Giáp đă nói "Đảng bây giờ trở thành cái b́nh phong để cho những kẻ bất nhân, tham nhũng lộng hành. "
+Những người công nhân, nông dân bị đảng và những quan tham bóc lột thậm tệ và bị khinh rẻ nhất trong thời đại cộng sản ngày nay, nhưng đảng vẫn luôn hô đảng là đội quân tiên phong của giai cấp công nông.
+Một đất nước do cơ chế độc tài đảng trị chuyên quyền tuyệt đối nên đảng, các cán bộ của đảng từ trung ương cũng như địa phương coi thường pháp luật, coi thường nhân dân v́ thế ở đâu cũng xẩy ra các vụ khiếu kiện, kêu cứu của dân. Đă có vô số vụ lên tỉnh, lên trung ương nhưng đảng chả bao giờ giải quyết cho dân. Sự thực dân nay đă trở thành trâu ngựa trong thời đại cộng sản bây giờ.
+Một đất nước do không có dân chủ nên những người tài năng có trí tuệ th́ đều bị xếp xó hoặc phải nghe và làm theo những kẻ cầm quyền bất nhân, bất tài.
+Một đất nước do không có tự do, không có nhân quyền v́ vậy các văn nghệ sỹ không thể phát triển tài năng theo ư muốn cá nhân. Các nhà báo không phải phục vụ nhân dân v́ họ phải luôn viết, nói theo ư đảng chứ không theo sự thật về t́nh cảnh đất nước. Sự thật họ là những người ăn cơm của dân nhưng lại lừa dối nhân dân mà thôi.
Lịch sử nhân loại chắc chắn chưa có một chế độ chính trị nào vô lư, nguy hiểm, tàn ác hơn chế độ đảng trị độc tài. Đó là chế độ mà mọi ban ngành đều do đảng, người của đảng cầm quyền, lănh đạo, quyết định tất cả. Nhân dân chỉ là những con rối, những cái máy để cho đảng sử dụng mà thôi. V́ đảng trị độc tài nên những người của đảng không có tŕnh độ, không có chuyên môn vào nắm quyền ở mọi ban ngành. V́ vậy mọi ban ngành của đảng đều làm việc theo chủ quan cảm tính chứ không theo chuyên môn, không theo luật pháp. Mặt khắc, các ban ngành đều không có phân định trách nhiệm rơ ràng, do đó nền đảng trị là phủ nhận trí tuệ, phủ nhận chuyên môn, phủ nhận tự do và phủ nhận luôn cả con người.
Chắc chắn một chế độ đảng trị là một chế độ phá hoại xă hội, phá hoại con người, phá hoại kinh tế. Xă hội bị một đảng dành quyền cai trị th́ xă hộ này luôn luôn suy thoái, nghèo đói, bất công và tham nhũng.
Tôi nghiên cứu Khổng Tử, Mạnh tử, Lăo Tử, Trang Tử và cổ học tinh hoa năm 19 tuổi, ở thời Xuân thu mấy ngh́n năm về trước con người đă có tư tưởng "đại đồng". Tư tưởng này giống như chủ nghĩa cộng sản của Mác - Lê Nin. Sự thực tư tưởng người xưa tiến bộ, hay hơn chủ nghĩa Mác - Lê Nin nhiều.
Tôi xin trích: "Đường lối chính trị rất cao cả mà thực hành th́ thiên hạ phải là của chung, của cả thiên hạ, không một người nào hay một nước nào được nhận thiên hạ làm của riêng ḿnh. Kén chọn người có đức vọng để làm lănh đạo, tuyển cử người tài năng để ra gánh vác. Giao thiệp đi lại với nhau cho có "Tín" lỡ có hiểu lầm nhau phải phân trần ngay.... ăn ở đối đăi với nhau cần phải "Hoà" lỡ có chênh lệch phải sửa đổi ngay. Có thế tự khắc ai ai cũng đều tôn quư cha mẹ ḿnh, ai ai cũng thân yêu con cái của người khác như con cái ḿnh...
Có thế thời cơ, mưu gian trá mới không nẩy ra và trộm cướp tự nhiên tiêu diệt...
C̣n chủ nghĩa Mác - Lê Nin th́ lấy đấu tranh giai cấp thù hận làm gốc cho học thuyết của ḿnh, lấy chủ trương dùng những người ngu dốt làm lănh đạo. Lê Nin đă viết "... giai cấp vô sản là nguồn năng lực cán bộ vô tận họ chỉ cần biết đọc, biết viết là đủ".
Nhưng thật tiếc, mơ ước của loài người luôn luôn tốt đẹp, nhưng con người là chủ quan của từng cá nhân và tín ngưỡng phong tục riêng của mỗi dân tộc, bởi vậy loài người không bao giờ đại đồng được.
Theo tôi nếu một người học hành thâm nho thật sự th́ họ không thể làm cộng sản theo kiểu Mác - Lê Nin được.
Người Trung Quốc ở thời xa xưa đă có bàn đến mọi vấn đề xă hội nhưng không có ai bàn đến dân chủ, tự do và nhân quyền cả. Đây là điều đáng tiếc. C̣n ở Hy lạp, nhà triết học, nhà đạo đức học Đê Mô Crít (460 - 370) trước công nguyên đă khẳng định " Dù sống nghèo khổ trong chế độ dân chủ, c̣n hơn cuộc sống được gọi là hạnh phúc trong chế độ quân chủ" và đă khẳng định: "Hạnh phúc là sự thanh thản trong tâm hồn và được tự do".
Đọc đến đây chắc các bạn thấy nhận thức, học thức của những người cộng sản thua kém cả những người tiền sử rồi chứ ?
Tôi biết đảng cộng sản Việt Nam hiện nay có một "Hội Đồng Lư Luận Trung Ương" đang cố uốn và bẻ chủ nghĩa Mác - Lê Nin thành "chân lư thời đại" để cho đảng vẫn độc tôn và tồn tại. Thật đúng như bài 202 "nguỵ biện" trong sách: Cổ Học Tinh Hoa. Tôi xin trích đoạn cuối "... Thói thường ở một nước loạn, ư nghĩa có câu nói thường hay trái nhau."
Trích lời bàn: "...Cái tṛ ở đời người chỉ vụ lợi th́ không c̣n biết nghĩa là ǵ nữa. Hoặc khi có ai giảng giải cho th́ lại t́m câu khéo nói, viện lư sự cùn để tế toái đi cho xong, và tự cho ḿnh là phải là có lẽ.
Viết đến đây tôi nhớ đến chuyện "Đạo Chích". Chích là một tên đầu đảng luôn đi ăn cướp, ăn trộm, giết người, ăn thịt người. Thế mà khi Khổng Tử đến khuyên dạy, Chích đă lấy "Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Dũng" của đạo Khổng rồi nguỵ biện làm cho Khổng Tử dù biết nguỵ biện nhưng cũng phải thua Chích vậy.
Trong 4000 năm lịch sử chưa bao giờ dân tộc Việt Nam lại phải chịu nhục nhă và con người suy thoái đạo đức như thời cộng sản. Chính v́ thời đại đồi bại nên nhân dân bây giờ bị oan trái nhiều và không c̣n ai tin vào đảng cộng sản nữa. Bởi vậy công nhân đă đ́nh công nhiều c̣n nông dân th́ khiếu kiện ở khắp mọi nơi và tại một số thành phố lớn nhân dân đă biểu t́nh chống lại quan tham, chống lại nhà nước.
Trung Quốc có câu "Ngu như dân, linh như thần". Dân hiện họ không biết cái gốc v́ sao mà xă hội Việt Nam quan lại bất nhân, tham nhũng lan tràn, nhưng các cuộc đồi bại ở trung ương, ở địa phương và các vụ tham nhũng th́ ai cũng biết cả đấy.
Chính v́ đảng, nhà nước ăn hại và làm hại nhân dân nên hiện nay trong nước đă ra đời khối 8406, đảng Dân Chủ Nhân Dân, đảng Dân Chủ, đảng Thăng Tiến và chắc rồi đây sẽ có nhiều đảng, nhiều tổ chức nữa ra đời, họ là những người yêu nước vùng dậy đấu tranh ôn hoà đ̣i hỏi đảng cộng sản trả tự do, nhân quyền cho nhân dân. Họ là những người bất khuất, bất chấp tù đày, bất chấp quyền lợi. Dù đấu tranh ôn hoà nhưng đảng cộng sản Việt Nam vẫn luôn run sợ v́ vậy họ vẫn luôn đe doạ, đàn áp. Sự thật th́ những người đấu tranh cho dân chủ tự do, không có quân đội, không có công an, không có nhà tù, họ chỉ lên tiếng góp sức vào cuộc đấu tranh đ̣i dân chủ mà thôi.
Họ không phải là lực lượng làm cho đảng cọng sản tan ră và thời đại thay đổi được.
Chúng ta ai cũng biết rằng năm 1978 đảng cộng sản Trung Quốc cho Đặng Tiểu B́nh cầm đầu đă quyết định đi theo kinh tế thị trường tư bản. Sau đó đến năm 1989 th́ khối cộng sản Đông Âu sụp đổ và cả khối đă đi vào chế độ chính trị, kinh tế tư bản chủ nghĩa. Đến năm 1991 th́ đảng cộng sản Liên Xô tan ră. C̣n Việt Nam th́ năm 1986 đảng cũng đă hô hào đổi mới, kỳ thực là đi theo kinh tế thị trường tư bản. Như vậy là chủ nghĩa Mác - Lê Nin mà các đảng cộng sản từng hô "vô địch" đă không có ai địch cả, nhưng ngày nay đă không c̣n sống được với nhân loại, với các đảng cộng sản cũng như những người cộng sản nữa.
Những người quan tâm đến vận mệnh đất nước th́ đều biết rằng ông Hoàng Minh Chính là Tiến Sỹ Triết Học, Viện Trưởng Viện Triết Học Mác - Lê Nin từ năm 1960 – 1965, đă chống lại chủ nghĩa cọng sản năm 1967 và đă bị đảng bắt tù nhiều năm. Đến năm 1991 th́ các nhà lư luận hàng đầu của đảng đă được đảng tổ chức cuộc hội thảo về "chế độ xă hội dân chủ". Họ đă viết "mục đích là để phê phán sâu sắc hơn nữa để cho đảng tiếp tục đổi mới". Trong đó có ông Lê Hồng Hà là một nhà lư luận hàng đầu của đảng nay đă từ bỏ đảng và từ bỏ học thuyết Mác - Lê Nin. Theo hồi kư Lê Khả Phiêu, đến năm 1995 đă có cuộc họp kín giữa các ông Phạm Văn Đồng, Vơ Văn Kiệt, Nguyễn Mạnh Cầm, Vũ Oanh là những người đă chủ trương xoá bỏ chủ nghĩa cộng sản và tên đảng cộng sản. Các ông Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu... th́ vẫn chủ trương duy tŕ chủ nghĩa cộng sản và đảng cộng sản. Sau đó ông Phạm Văn Đồng đă đề cử ông Nguyễn Mạnh Cầm làm tổng bí thư đảng. Nhưng cánh cấp tiến đă bị cánh bảo thủ có quyền lực hơn gạt đi. Hiện nay th́ đă có hàng ngàn cán bộ đảng viên đảng cộng sản đă quay lưng với chủ nghĩa Mác- Lê Nin. Họ đang lên tiếng đ̣i đảng bỏ điều 4 hiến pháp và trả tự do nhân quyền cho nhân dân. Như các ông Vơ Nguyên Giáp, Vơ Văn Kiệt, đại tướng Chu Huy Mân hoặc con ông Lê Duẩn là Lê Kiên Thành v.v...
Ngoài những người đă và đang lên tiếng th́ đa số các đảng viên đă về hưu ở các thành phố lớn nhờ có nhiều thông tin nên họ đă thấy được thời đại bất công, vô lư, dù họ không công khai lên tiếng chống lại đảng cầm quyền, nhưng họ ủng hộ các nhà đấu tranh dân chủ và đồng thời họ không theo đảng cầm quyền cũng như chủ nghĩa Mác - Lê Nin nữa. Như thế là những người ngồi cùng thuyền với Vua "Tấn" nay đa số đă biến thành con nhà họ "Loan" cả rồi.
Thực tế qua dư luận trong Bộ Chính Trị, trong các uỷ viên trung ương cũng như các học giả trí thức th́ đảng cộng sản Việt Nam sau một giai đoạn chia bè chia phái tranh giành nhau, giết nhau, vu khống nhau th́ trong một thời gian gần đây đảng sẽ bị những người cấp tiến giải tán rồi thay đổi cương lĩnh, luật pháp để đi vào thế giới tự do và dân chủ thực sự. Đó cũng là con đường duy nhất để đưa nhân dân Việt Nam đi lên giàu mạnh và công bằng văn minh thật sự và đúng trào lưu thời đại.
Theo dư luận và theo tôi được biết th́ hiện nay ê kíp của ông Mười, ông Anh đang ngày một suy yếu dần (thực tế ông Mười và ông Anh đă 86 tuổi th́ c̣n được bao lâu nữa). Hiện nay trong Quốc Hội, trong bộ Chính Trị, trung ương đảng đang có sự chia rẽ, bất măn, bất phục tùng và nổi loạn ngày một lớn hơn.
Một đất nước văn minh th́ khoa học, triết học giúp con người thấy nguồn gốc của vũ trụ, con người từ đâu mà có, giúp khám phá các bí mật của vật chất để loài người xây dựng khoa học và công nghệ ngày càng tiên tiến hơn. Tôn giáo cho con người niềm tin và hy vọng và đồng thời xây dựng con người có đạo đức, có t́nh thương yêu. Nhưng các đảng cộng sản th́ những yêu cầu đó đă không làm được. Chính v́ vậy mà các đảng cộng sản qua thời gian đă phải tan ră mất dần. Sự thực là họ đă chống lại con người, chống lại sự phát triển của xă hội.
Dân giàu có văn minh lên th́ đảng cộng sản không thể tồn tại được, chính v́ vậy trong tương lai không xa đảng cộng sản Trung Quốc cũng phải chấp nhận tự do, dân chủ đa nguyên. Rồi đây đảng cộng sản Việt Nam cũng phải thay đổi triệt để và chấp nhận sự cạnh tranh của các đảng cộng sản khác. Xă hội mới là một xă hội tự do văn minh nhân ái thật sự. Mọi người tự do đấu tranh và phát biểu chứng kiến của ḿnh. Xă hội mới phải cần đoàn kết dân tộc. Những người hưu trí, thương binh hưởng lương cũng sẽ được trả lương như thường. Quân đội là để giữ vững bờ cỏi, công an là để giữ ǵn an ninh cho người dân và xă hội. Ngoài việc xác định lại vị trí, trách nhiệm của quân đội và công an, Chính phủ mới vẫn phải dùng những người đang đương chức hiện nay.
V́ vậy tôi mong mọi tầng lớp như quân đội, công an, hưu trí cũng như các nhà doanh nghiệp, tầng lớp công nông, trí thức hăy đi theo hoặc ủng hộ những người đấu tranh cho dân chủ, tự do. Đó là con đường khôn ngoan và v́ dân v́ nước thật sự.
Việt Nam ta hiện nay nếu có ai hoặc một ê kíp nào trong đảng cộng sản mà tỉnh táo, khôn ngoan đưa đất nước đi vào quỹ đạo tự do, dân chủ, đa nguyên thật sự th́ chắc chắn họ sẽ được cả dân tộc mang ơn và tôn vinh măi măi.
Dân chủ, tự do là căn bản giải quyết mọi vấn đề của mọi vấn đề xă hội. V́ vậy trách nhiệm cao cả thiêng liêng nhất bây giờ của mọi công dân Việt Nam là đấu tranh để đưa dân tộc ta, đất nước ta đi vào thế giới văn minh, tự do, dân chủ, nhân quyền và đa nguyên thật sự.
Hà Nội, ngày 05 tháng 10 năm 2006
Phạm Hồng Đức
Học thuyết “đấu tranh giai cấp” hay “thiên đường XHCN”
Phanxipang
( Trích phần cuối bài “ Tuol Sleng với thiên đường XHCN ” của Phanxipang )
Cũng như những người theo chủ nghĩa Marx, để phát động cuộc “đấu tranh giai cấp” ở Campuchia, Pol Pot cũng đă từng vẽ lên một “thiên đường XHCN” mà ở đó, không cần có tiền tệ, không cần có chợ búa, không có chế độ người bóc lột người. Muốn làm được điều đó, phải tiêu diệt hết mọi mầm mống đẻ ra bóc lột. Giàu có, đủ ăn được coi là một trong những biểu hiện của phi vô sản, cần phải lên án.
Thời c̣n bé thơ, không ít lần tôi lũn chũn theo mẹ đi chợ. Nhà có khách, trước khi bước vào hàng cá, mắt mẹ tôi ngó trước ngó sau, sà vào, hỏi giá thật nhanh, dẫu chỉ là mấy con cá chù, mua xong lấy bó rau má che đậy lại rồi tất tả đi về như bị ai đuổi. Nhà tôi không mấy khi phải ăn độn, nhưng nồi cơm bao giờ cũng phải hấp khoai lang khô. Lỡ có hàng xóm sang chơi, đang ăn bát cơm gạo cũng phải giấu để sẵn bát cơm độn khoai làm màu... Hôm nào lỡ có khách, thịt gà, phải để thớt lên bao tải, chặt thật êm, ăn xong, lông và xương mang ra vườn chôn xuống đất, nếu nhỡ có ai biết th́ rầy rà to. Thế hệ chúng tôi đă lớn lên trong một xă hội tôn thờ sự nghèo đói, tôn thờ giai cấp vô sản. Nỗi ám ảnh của những cuộc cải cách vẫn dai dẳng đeo bám vào mọi mặt đời sống xă hội.
Cuộc cải cách ruộng đất được coi là long trời lở đất sau này đă được đánh giá lại và đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đă thừa nhận là sai lầm. Đây có lẽ là điều tạo nên sự khác biệt giữa Hồ Chí Minh với các lănh tụ vô sản khác. Dẫu sau này, một số kẻ chống cộng cực đoan có đưa ra nhiều tài liệu nhằm bôi nhọ Hồ Chí Minh nhưng với đông đảo người dân Việt Nam, vẫn luôn luôn coi Hồ Chí Minh là một lănh tụ vĩ đại. Cũng chính v́ lư do đó, Đảng cộng sản Việt Nam vẫn dùng h́nh tượng Hồ Chí Minh như khoản vốn liếng chính trị cuối cùng để biện minh cho chế độ độc tài.
Chuyện cũ tưởng như đă lùi vào quá khứ, khi có mặt ở Tuol Sleng, người hướng dẫn bảo tàng giới thiệu lại: Khi nắm được chính quyền, Pol Pot cũng đă từng tuyên bố xây dựng Campuchia thành xă hội cộng sản mẫu mực, với một nhà nước chuyên chính vô sản triệt để, v́ dân do dân. Thế nhưng kết quả của 3 năm 8 tháng cầm quyền, hàng triệu người Campuchia đă liều chết trốn chạy khỏi “thiên đường” cộng sản của chế độ Pol Pot. Một bộ phận không nhỏ người Campuchia gốc Việt đă chạy về lánh nạn ở Việt Nam. Trong số đó có ông Sáu Cọt, sau này quay trở lại Campuchia làm ăn và trở thành một doanh nhân nổi tiếng với thương hiệu Sokimex có mặt ở trên 20 tỉnh thành Campuchia.
Tôi chưa được tới bức tường Berlin, nơi ngăn cách giữa Đông và Tây nước Đức, giữa một bên là chế độ tư bản với thiên đường cộng sản, nhưng tôi cũng đă được nghe hàng trăm người kể về câu chuyện những người dân Đông Đức bất chấp mọi hiểm nguy, người liều chết trốn khỏi “thiên đường cộng sản” để đến với tư bản. Sau gần 80 năm mộng bá đồ vương, cái thiên đường thành tŕ vô sản thế giới ấy đă tan tành, bức tường ô nhục ngục tù của thế giới cộng sản đă sụp đổ mà không một ai có thể cứu văn nổi.
Với “thiên đường XHCN”, học thuyết Marx- Lenin đă ru ngủ nhân dân ở những nước có tŕnh độ dân trí thấp, nhưng rồi, sau những cơn ác mộng, từng bước họ sẽ được thức tỉnh. Không chỉ ở những nước có chế độ cộng sản mà cả những nước không cộng sản. Ngày 26/1/2006, bản nghị quyết 1481 của Nghị Viện Âu Châu, đại diện cho một phần nhân loại, đă lên tiếng chỉ đích danh tên tội ác chống nhân loại đó là các đảng cộng sản trên toàn thế giới- hầu hết đă sụp đổ- chỉ c̣n lại Trung quốc, Bắc Triều Tiên, Cuba... Nghị quyết 1481 đó là hồi chuông báo hiệu bước khởi đầu cho một Ṭa Án Quốc Tế xét xử tội ác chống nhân loại của những nhân vật đă từng được tôn thờ như Stalin, Mao trạch Đông...
Thành tŕ vô sản thế giới với tiềm lực vũ trang hùng mạnh gồm tên lửa mang đầu đạn hạt nhân, tàu ngầm nguyên tử... với cỗ máy chiến tranh khổng lồ, với bộ máy an ninh t́nh báo được huấn luyện kỹ, cài đặt vào mọi ngơ ngách của đời sống, vậy mà một sớm một chiều đă tan như bọt nước. Nghị quyết 1481 của Nghị viện Châu Âu đă là tiếng chuông đánh thức lương tri nhân loại. Đó cũng là tiếng chuông đánh tan những mây mù hoài nghi, run sợ và thất vọng. Với sự tiến bộ của kỹ thuật truyền thông, với sự giám sát của lương tri nhân loại, không có ǵ trong bóng tối mà không được nói ra, không có ǵ tàn ác mà không bị phơi bày ra trước lương tri nhân loại. Tội ác diệt chủng của Pol Pot tưởng như bị lăng quyên, nhưng sau nhiều lần tŕ hoăn th́ phiên ṭa xét xử tội phạm diệt chủng cũng sẽ được tiến hành vào đầu năm tới.
Được coi là đứa con của hệ thống chính trị Việt Nam, nhưng Hun Sen đă vượt qua được những ràng buộc từ ư thức hệ mà những người cộng sản Việt nam đă dày công nhồi nhét. Nắm trong tay quân đội, nắm trong tay chính quyền, nhưng Hun Sen đă thức thời hơn, tự tin mở toang cánh cửa, hội nhập với thế giới. Ông cũng là người chấp nhận một cuộc bầu cử tự do với sự tham gia của các đảng phái đối lập. Điều quan trọng hơn, ông dám công khai tuyên bố: Đảng Nhân Campuchia (CPP) là đảng của dân tộc, CPP không theo chủ nghĩa Marx –Lenin, không theo chủ nghĩa cộng sản. Riêng hành động này của Hun Sen cũng đáng được người đời dành cho ông sự ngưỡng mộ.
Trở lại câu chuyện ở đầu bài viết, một anh bạn đồng nghiệp ở nước ngoàii đă nói với tôi: “Khi thấy Hà Nội x̣e ô có nghĩa là Bắc Kinh đang mưa” . Những thông tin về Campuchia c̣n quá ít ỏi phải chăng c̣n có một lư do khác là con đường của Hun Sen đang đi khác hẳn với những mong muốn ban đầu của đàn anh và thực tiễn ở đó dường như bác bỏ lại những luận điểm của Đảng cộng sản Việt Nam. Sự tràn ngập thông tin về Trung Quốc dường như đang minh họa cho một thể chế độc tài theo mô h́nh ở Trung Nam Hải?
Phnom Penh- Hà Nội- mùa hè năm 2006
Phanxipang
Sinh viên và thế hệ trẻ quốc nội hăy lên tiếng v́ quyền lợi của ḿnh
Ngày nay, những người có lương tri đều biết, học thuyết Mac-Lenin đă sai lầm, chủ nghĩa cộng sản đă không thể thực hiện và mục đích xóa bỏ chế độ tư hữu của người cộng sản đă thất bại. Cựu Uỷ Viên Bộ chính trị Đảng Cộng Sản Liên Xô, chủ tịch Đoàn chủ tịch Sô viết tối cao Liên bang cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Sô viết Nga, Tổng thống Nga Boris Yelsin đă từng nói “ Cộng sản không thể sửa đổi, Cộng sản chỉ có thể loại bỏ “. Đây là một điều không thể nghi ngờ. Mọi người không thể bị tước đi những quyền tư hữu một cách độc đoán th́ họ có quyền lựa chọn chế độ bảo vệ quyền lợi của họ, đó là chế độ tư hữu mà chủ nghĩa Mac-Lenin muốn xóa bỏ. Giới lănh đạo Cộng sản Việt Nam lợi dụng sự thành công của họ trong mục đích giải phóng dân tộc, đánh đuổi ngoại xâm để áp đặt chủ nghĩa này cho mục đích xây dựng và phát triển đất nước là hoàn toàn tai hại và sai trái. Xem qua quyết định số 11381/BGDĐT-ĐH&SĐH (http://www.hed.edu.vn/TrangChu/TinTuc/301250978/) Giới trí thức của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo đă nhận biết học thuyết Mac-Lenin là sai lầm nên đă không c̣n coi trọng giảng dạy môn học này, song vẫn c̣n chưa dứt khoát loại bỏ mà c̣n để cho sinh viên tự học và ứng dụng. Thật là vô lư, vô tri thức khi biết học thuyết Mac-Lenin sai trái nhưng c̣n hành hạ “vận dụng thực tiễn”, trong khi ở Việt Nam mọi người đều có quyền tư hữu và quyền này được hiến pháp công nhận và pháp luật bảo vệ. Không ai dám vận dụng môn học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm giải quyết các vấn đề thực tiễn để xóa bỏ tư hữu tư bản của người khác. Không thể vận dụng chủ nghĩa này vào thực tiễn Việt Nam, nếu có vận dụng th́ chẳng khác ǵ bảo nhau đi ăn cướp và cưỡng hiếp người khác để trở thành tội phạm. Dạy các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và ứng dụng nó là một tội ác đối với sinh viên và thế hệ trẻ Việt Nam. Tôi xin liên hệ điều đó qua những sự việc đang diễn ra đối với sinh viên Việt Nam nói riêng và thế hệ trẻ nói chung qua những thực tiễn sau :
Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là 2 môn học khác nhau, trong đó tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng giải phóng dân tộc, đánh đuổi ngoại xâm. Nay thời đó đă qua, những vấn đề liên quan đến Hồ chí Minh thuộc môn lịch sử. Học và khai thác tư tưởng giải phóng dân tộc, đánh đuổi ngoại xâm để áp dụng cho phát triển kinh tế, hội nhập toàn cầu là một việc làm của những người mất trí. Những người trung thành với Hồ Chí Minh có thể giỏi ở chiến trường đánh giặc giữ nước, nhưng họ không thể giỏi ở thương trường làm lợi cho đất nước. Cho nên loại bỏ tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn ngày nay là cần thiết . Có thể nêu trong giáo tŕnh lịch sử để cổ vũ cho tinh thần yêu dân tộc chứ không phải làm theo để đất nước tụt hậu về kinh tế..
Việc đưa vào chương tŕnh giảng dạy và nghiên cứu, giải quyết các vấn đề của xă hội theo một học thuyết sai lầm làm lăng phí khá nhiều thời gian học tập (chiếm khoảng trên 100 tiết) trong khi thời gian, kiến thức chuyên ngành cần hơn cho hành trang của sinh viên. Một điều vô cùng tai hại là chương tŕnh này được đưa ngay vào học khi sinh viên mới vào trường nên đă làm cho thế giới quan và nhân sinh quan của sinh viên đă bị nhồi nhiềm và tư duy bị quái dị, khủng hoảng trước thực tiễn. Cả giảng viên và sinh viên đều trở thành nhu nhược trước lư luận và thực tiễn đang xa rời chủ nghĩa Mac-Lenin đang diễn ra hàng ngày.
Những sinh viên du học mà đa số họ là con em của những người có quyền, có chức, có địa vị khi học ở nước ngoài không bị nhiễm bởi môn học này nên trong tương lai họ về nước và tiến nhanh, thành đạt hơn, kể cả cộng với lợi thế con em, cháu cha và kiến thức thuần túy cao về chuyên môn (do không bị lăng phí và thối năo bởi học môn học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh). Ví dụ cụ thể là trong khi bắt sinh viên trong nước học môn học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh th́ ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho con của ḿnh sang Hoa Kỳ du học để tiếp thu thuần thục kiến thức của Hoa Kỳ. Chính ông Nguyễn tấn Dũng và những người có địa vị trong Đảng Cộng sản Việt Nam đă không c̣n niềm tin vào hệ thống đào tạo trong nước dưới sự lănh đạo của ḿnh, họ đă cho con em của ḿnh thoát ra nước ngoài học, để trong nước họ lănh đạo làm ngu thêm sinh viên và thế hệ trẻ. Sinh viên và thế hệ trẻ quốc nội bị chính sách ngu dân và thua thiệt đủ đường.
Chi phí cho học tập của sinh viên trong nước là một gánh nặng của sinh viên, nhưng lại phải học, phải đầu tư thời gian, tâm trí và tiền bạc để học một môn mà biến ḿnh thành một kẻ nhu nhược, hèn kém trước người khác là một việc vô lư và bất công. Học và nghiên cứu môn học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để nói và làm ngược với xu thế của thời đại là tự hủy hại ḿnh, trong khi du học sinh ở nước ngoài họ học và hành luôn luôn hợp lư để sự nghiệp, thành quả của họ rất cao khi mọi suy nghĩ và hành đông của họ không có mâu thuẫn và do dự.
Giới nhân sự thế hệ trẻ ban đầu do có nhiệt huyết với nhân dân, dân tộc đă bị giới lănh đạo Đảng Cộng sản Vietnam lừa phỉnh và dụ dỗ để bị nhồi nhét học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, để ngu muội dần dần và trong tương lai sẽ làm lực lượng tự bêu riếu ḿnh v́ kiểu cách học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một đàng và cản trở xă hội đang phát triển theo một nẻo. Nguy cơ họ bị liệt vào dạng ngu si, ăn tục nói láo để bị đào thải rất cao, bởi lối làm ngu do giới lănh đạo hiện tại sắp đặt. Làm cho những kẻ con ông cháu cha có lợi thế ăn học ở nước ngoài vừa được ăn, vừa được nói và vừa được sai bảo những kẻ tự bị ngu. Đây là một sự bất công cho thế hệ trẻ có tấm ḷng tốt với nhân dân, dân tộc Việt Nam.
Tôi viết nhận định này với mục đích khẳng định quyền b́nh đẳng, tự do và mưu cầu hạnh phúc bất khả xâm phạm của mọi người, đặc biệt là của sinh viên và giới trẻ quốc nội. Các bạn có quyền tẩy chay môn học tai hại này, có quyền biểu t́nh phản đối v́ bị mất thời gian, tâm trí cho môn học này, có quyền không bị ngu do môn học này gây ra và có quyền tố cáo những áp đặt bất công, vô lư mà giới có quyền chức do Đảng Cộng sản Việt Nam lănh đạo đang tạo ra. Qua đó tôi hy vọng những điều vô lư bất công trên sẽ được giải quyết trong một thời gian ngắn.
13.1.2006
Phạm văn Điệp
Một thiên thạch khổng lồ đang đe dọa trái đất
Nguyễn Thanh Giang sưu tầm
Một thiên thạch khổng lồ đường kính 300 – 400m nặng 35 triệu tấn đang lao về Trái Đất với tốc độ 44.800 km/giờ. Các nhà khoa học đặt tên thiên thạch mang hiểm họa lớn này là Apophis – tên vị thần Bóng tối và Hủy diệt trong thần thoại Hy Lạp. Nếu tính toán của các nhà bác học là đúng th́ sau 22 năm nữa “ Trái bom trời ” chứa sức công phá tương đương 58.000 – 65.000 quả bom nguyên tử ném xuống Hirosima này sẽ đâm vào Trái Đất lúc 4 giờ 36 phút sáng ( giờ GMT, tức 11 giờ 36 phút sáng, giờ Hà Nội ) ngày thứ sáu, 13 tháng 4 năm 2029. “ Thần Bóng tối và Hủy diệt ” có thể tàn phá một vệt dài từ phía tây nước Nga, qua Thái B́nh Dương, Trung Mỹ rồi cắt ngang Đại Tây Dương, tạo nên sóng thần cao tới 256m. Ngoài một số thành phố miền tây nước Nga, San Jose, Costa Rica, Nicaragoa và Venezela đều nằm trong khu vực bị tàn phá.
Hiện tượng các thiên thạch kích cỡ khác nhau rơi vào Trái Đất là hiện tương thường xuyên xẩy ra. Có giả thiết cho rằng một thiên thạch khổng lồ gấp nhiều lần Apophis đă từng đâm vào Trái Đất làm bắn tung một mảng Trái Đất bay lên trời trở thành Mặt Trăng, để lại cái nôi sinh của nó là Thái B́nh Dương.
Cơ quan hàng không vũ trụ Hoa Kỳ NASA đă soạn thảo một báo cáo gửi Quốc hội và một cơ quan mang tên Ủy ban Pḥng vệ Trái Đất sẽ được thành lập vào tháng 3 năm 2007 với sự tài trợ của các tổ chức đa quốc gia, trong đó có NASA, Cơ quan Vũ trụ Châu Âu và Tổ chức Nghiên cứu Vũ trụ Ấn Độ nhằm tạo những tác động nhân tạo làm chệch hướng đi của Apophis, không cho đâm vào Trái Đất.
Có thể sẽ phải tạo một cú huưch vào Apophis tù một con tầu vũ trụ nặng khoảng một tấn gây nên một tác động năng lượng động học buôc Apophis bay chệch khỏi quỹ dạo hiện tại của nó.
Cũng có thể dùng một tầu vũ trụ kiểu “ cánh quạt trọng lực ” bay quanh khối thiên thạch, nhẹ nhàng kéo nó nhích khỏi quỹ đạo của nó bởi trọng lực của chính nó.
Nguyễn Thanh Giang sưu tầm
Ai bóc lột nhân dân?
Nguyễn Phương Anh
Nhân dân ta bị bóc lột nhiều thứ, các việc bóc lột về đất đai, tài sản… hay kể cả quyền con người đều đă được các cơ quan thông tin, ngôn luận liệt kê, nhiều bằng chứng của họ đưa ra th́ tuỳ từng bạn đọc hiểu, trong bài viết này tôi chỉ nêu lên một vấn đề nhỏ : đó là sự bóc lột tiền của nhân dân thông qua việc không hoàn thuế VAT, thuế nhập khẩu cho các hoạt động xuất khẩu của người dân mà các chứng cớ rành rành ra đấy.
Sơ qua năm 2006 chúng ta xuất khẩu được vài chục tỷ USD, không kể các công ty thương mại hay công ty FDI… chuyên xuất khẩu các hàng lắp ráp, hay giầy da, may mặc… v́ được hoàn thuế đa phần, th́ đối tượng nhân dân tham gia trực tiếp xuất khẩu với sức lao động nhỏ mà đa phần phải dùng hàng hoá có thuế VAT để làm phần chính của hàng xuất khẩu mà lại không được hoàn VAT khi hoạt động chuyên cho xuất khẩu. Hiện nay bộ Tài Chính đă xoá bỏ khoản khấu trừ thuế VAT trên các bảng kê mua hàng từ người sản xuất trực tiếp hay các hộ cá thể… việc làm này cũng vô h́nh chung gây khó khăn cho việc kiếm lợi nhuận từ nhân dân v́ lư do doanh nghiệp không được khấu trừ th́ phần thiệt tḥi này đă đổ hẳn sang phía người dân. Chưa kể khi bộ Thương Mại trong năm 2006 lại c̣n băi bỏ việc thưởng xuất khẩu ~ 1000 đồng/ USD xuất khẩu th́ lại c̣n gây khó khăn tiếp cho người dân.
Xem chi tiết năm 2006 :
- Xuất khẩu nông lâm sản đạt 7,16 tỷ đô la : trong khi để sản xuất ra lượng hàng này nông dân phải mua giống, phân bón với VAT 10% chưa kể thuế nhập khẩu một phần phân bón từ nước ngoài. Cứ cho giá trị thặng dư là 30% th́ phần vốn bỏ ra sẽ là ~ 5 tỷ đô la bao gồm cả thuế VAT, tính 10% thuế VAT đồng đều trên phân bón, các khoản chi phí khác… th́ nông dân đă bị bóc lột 500 triệu USD chưa kể thuế nhập khẩu kiểu tạm nhập tái xuất, VAT của các loại hàng khác phục vụ chủ yếu cho xuất khẩu > 10%.
- Xuất khẩu hải sản đạt 3,3 tỷ đô la : cũng tính theo cách trên th́ phần vốn là 70% tức là 2,3 tỷ USD, phần vốn này đa phần là xuất phát từ dầu máy để ngư dân tham gia đánh bắt, một phần nữa là thức ăn chăn nuôi, mua máy móc thiết bị phục vụ đánh bắt…với thuế nhập khẩu xăng dầu 20% và VAT10% th́ lượng thuế phải hoàn cho ngư dân không ít hơn 600 triệu USD.
- Xuất khẩu muối đạt 30.000 tấn cỡ 2 triệu USD : tính b́nh quân thuế dịch vụ mà diêm dân dùng để chuyên cho xuất khẩu cỡ 10% th́ thuế phải hoàn là 200.000 USD.
- Xuất khẩu lao động trong năm vừa qua là ~ 80.000 lao động : kể chi phí đào tạo 5 triệu đồng / người với thuế VAT cho dịch vụ đào tạo 10% th́ lượng thuế VAT phải hoàn là ~ 80 tỷ đồng, xấp xỉ 5 triệu USD. Chưa kể người đi lao động lại bị bóc lột ở lăi suất tiền gửi do phải có tiền đặt cọc cho doanh nghiệp, b́nh quân 4000 USD/ người là ~ 320 triệu USD (cho tất cả các thị trường), tính lăi suất USD/ năm là 4,5% th́ người lao động bị bóc lột 14,4 triệu USD/ năm. Số tiền bị bóc lột này là c̣n ít bởi v́ chưa kể chêch lệch do người dân phải vay ngân hàng, thế chấp nhà cửa để đủ tiền đi xuất khẩu mà vốn vay lại phảI tính bằng tiền Việt với lăi suất cao hơn 12%/ năm và chưa tính đến chênh lệch tỷ giá do tiền đồng mất giá so với USD trong cả năm. Nếu tính thêm thuế VAT phải trả cho việc mua vé máy bay cho 80.000 ngườI th́ sẽ là 8.000.000 USD phải hoàn.
- Các nghành hàng nhạy cảm khác khi người dân chỉ lấy sức sẵn có trong con người mà đem đi phục vụ xuất khẩu hay xuất khẩu tại chỗ, tại các khu chế xuất, các Free Trade Zone… và đem lợi nhuận về nước là chưa tính đến như : công nghiệp t́nh dục, dịch vụ phụ trợ…
Theo tổng kết sơ qua nêu trên th́ một năm người dân bị bóc lột đến : 1 tỷ 127,6 triệu USD tương đương mất không 5 triệu tấn gạo xuất khẩu !!!. Đây quả là một con số kỷ lục chỉ ngay trong việc nhỏ là hoàn thuế VAT khi xuất khẩu mà người dân đă bị bóc lột như vậy.
Trong t́nh h́nh đất nước ta đa phần người dân c̣n nghèo, vậy với bài viết này đề nghị nhà nước hăy t́m ra kẻ bóc lột và đền bù thiệt hại lại cho nhân dân, đặc biệt là những người dân chỉ bỏ công sức lao động ra để tạo hàng xuất khẩu. Hăy có chính sách hỗ trợ nông dân, ngư dân, diêm dân… một cách đúng đắn, chứ như các cách vừa rồi : Cho vay vốn ưu đăi để đóng tầu thuyền – th́ lại càng làm khổ dân v́ muốn vay được vốn th́ ngư dân phải lại quả đến 20-30% số vốn vay, khi băo lũ xảy ra được mấy đồng tài trợ của nhân dân cả nước th́ bị ai đó xà xẻo gần hết, nhận có 100.000 đ nhưng lại bị bắt phải ghi nhận 1 triệu ? Hàng chục tỷ trong quỹ hỗ trợ băo lụt bị thất thoát do ăn cướp, dùng sai chính sách đă đang là sự kiện nóng trên toàn quốc!… Hiện nay lại bắt buộc những người đi từ thiện phải quy về một mối để đóng tiền hỗ trợ… lại là việc làm không đúng.
Trong khi nước ta đang hô hào học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy dân chủ mà để một việc xảy ra như vậy th́ khác ǵ “nói vậy mà không phải vậy”, nói không đi đôi với làm. Đề nghị các cơ quan công bộc của dân hăy v́ dân mà ra tay dẹp vấn nạn này cho đúng nghĩa một chính quyền của dân, do dân, v́ dân.
Hà nội, 24/1/2007.
Nguyễn Phương Anh.
Ngồi buồn lại nhớ bút tre
Trần Khải Thanh Thuỷ
Bút Tre tên thật là Đặng văn Đăng (1920-1987), quê xă Đồng Lương, huyện Cẩm Khê, nay là huyện Sông Thao, Phú Thọ. Đỗ tú tài triết học, viết báo trước 1945 kư tên Lục Y Lang, sau thời kỳ làm công tác ngoại giao ở Ru Ma Ni về, ông làm việc tại cung văn hoá Phú Thọ. Làm thơ theo kiểu ca dao, ḥ vè, cốt sao có nội dung gắn liền với thời sự ở địa phương, nhiều người không hiểu cho rằng thơ ông thông minh, hóm hỉnh, nhờ đảo lộn cấu trúc lục bát, thay đổi vần vè, bắc cầu táo bạo từ câu trên xuống câu dưới v.v… Kỳ thực thơ ông là một sự tùy tiện, không tuân theo bất cứ nghiêm luật nào nên rất ngây ngô, tức cười. Tuy nhiên sự thành công của ông lại là sự ngộ nghĩnh, gây cười, dễ nhớ, dễ làm, chính v́ thế mà số người hưởng ứng rất đông. Cả nước từ trẻ đến già gần như ai cũng có thể bắt chước được, đà bay của người bay sau thường rộng hơn đà bay của người bay trước, nên Bút Tre rởm lại có sự thông minh hơn hẳn Bút Tre thật, mà vẫn không mất đi tính hồn nhiên vốn có của nó. Ví dụ "Tra lửa làng quê", ông viết:
Trăm năm ở một làng vè
Ngh́n câu lục bát mấy đề vè nôm
Khi khuya sáng lúc hồi hôm
Bà con kể lại xóm thôn vọng lời
Bút Tre nối bước những ai
Một ḍng thơ mở đường quai kể vè
Năm năm dân dă lắng nghe
Một Bút Tre thành vạn bút tre các làng
Cũng bằng cách kể theo kiểu ca dao ḥ vè dễ dăi như vậy, Bài một ngày của Phú Thọ, ông viết :
Bút Tre ngồi ngẫm tàn canh
Cho mai bén trúc cho anh bén nàng
Tứ thơ thấu khắp dân làng
Đưa chàng cập bến vui chàng đó đây
Qua sông bao chuyến đ̣ đầy
Mỗi ngày công việc đổi thay hoàn toàn
Nhịp sống mới ai lo cho hết
Ḷng người ta hồ biết đến cùng
Một vùng trời đất soi chung
Đẹp tươi h́nh nhả trăm vùng nên gương
Bút Tre chúc bạn lên đường
Thơ ngâm ngợi khúc ḷng vương vấn ḷng
(1961)
Một số trang di cảo mà ông chưa kịp đề tên bài cũng thể hiện rơ sự ngây ngô vụng về trong cách sử dụng luật bằng trắc, câu cú, ngôn từ :
Bút tre văn nghệ không thừa nhận
Thân bao bịa đặt cá nhân xuyên,
Nỗi oan trái đâu cần ai rửa
Góc trời vằng vặc ánh trăng riêng
Nếu được quyền chú thích, hẳn phải viết thêm chữ tạc vào cuối câu thứ hai để làm rơ ư thơ ông, nghĩa là một người làm công tác văn nghệ lấy bút hiệu bút tre như ông không thừa nhận sự bịa đặt và xuyên tạc của mọi người về cá nhân ông, chỉ v́ không thể làm thơ mà chỉ quen viết văn xuôi lại muốn ghép lại cho vần buộc ḷng ông phải bỏ chữ tạc đi, thành một thứ nửa ăn nói, nửa văn vần như vậy.
Sự dễ dăi trong thơ ông c̣n được thể hiện nhiều lần trong các câu :
Hoan hô đại tướng Vơ Nguyên
Giáp ta thắng trận Điện Biên trở về
Cờ hoa sáng rực trời quê
Nhà nhà phấn khởi hả hê nhà nhà
Cùng nhau hát khi hoàn ca
Bài ca giải phóng sáng loà Điện Biên
Hoan hô đại tướng Vơ Nguyên...
(Trường ca Điện Biên)
Quả là khen nhau kiểu ấy bằng mười lần hại nhau, cả Việt Nam chắc chắn chỉ nhà thơ tầm cỡ Bút Tre mới dám gọi đại tướng là "Giáp ta" theo kiểu nôm na dân dă như thế, như thể nói về một cậu bé tên Giáp nào đó chi tṛ đánh trận giả, phất cờ bông lau ở ŕa làng vậy. C̣n đối với vị đại tướng tên tuổi lừng lẫy Điện Biên, ngay cả kẻ bại trận, thua đau cũng kính cẩn gọi ông là Tướng Giáp thay v́ gọi đầy đủ cả chức vị họ tên kia mà.
Sự bắc cầu dễ dải tuỳ tiện, bất chấp nghiêm luật của ông được những “Bút tre phẩy” hồn nhiên bắt chước thể hiện đầy táo bạo, nghịch ngợm :
Hoan hô tổng thống Gioóc Ba
Chốp ngay cả hội san toà cộng san
Hay:
Anh đi công tác pờ lây
Cu dài dằng dặc biết ngày nào ra
C̣n em nằm lại buôn ma
Thuột đi thuột lại với cha láng giềng
Hoặc tức cười hơn cả Trạng Quỳnh thời xưa:
Em đi công tác đo Côn
Lôn rộng bát ngát bồn chồn chờ anh
Hay:
Hoan hô lực sĩ Lưu Trùng
Dương vật nổi tiếng khắp vùng gần xa
Quả là ông tổ của làng cười, người được mệnh danh sao sáng xứ Thanh cũng phải gọi bằng cụ khi thơ ông chỉ là một sự he hé tài t́nh chứ đâu có bạo gan bạo bút đến cỡ này:
Này lời giáo Thụ gửi về quê
Nhắn nhủ bà mi chớ ngứa nghề
Cơi Bắc anh mang thằng củ lẳng
Miền nam em giữ cái chai he
Hăy c̣n vưng vít như hang thỏ
Hay đă tô hô quá lỗ trê
Dù có thế nào đành chịu vậy
Hai ba năm nữa đợi anh về
(Đùa vợ giáo Thụ)
Cùng là sự chết hay cái chết, song sức công phá trong tiếng cười của Bút Tre có tác dụng hơn hẳn so với bà chúa thơ Nôm, khi bà viết:
Văng vẳng bên tai tiếng khóc chồng
Thương chồng nên nỗi khóc tỉ ti
(Bỡn bà Lang khóc chồng)
Thơ ông đôi khi mang tác dụng ngược
Bỗng nghe một tiếng xoẹt ngang
Bác Hồ đang sống chuyển sang từ trần
Hay ca ngợi đại tướng Nguyễn Chí Thanh cũng vậy:
Anh Thanh ơi hỡi anh Thanh
Anh về phân bắc phân xanh đầy chuồng
Một số bài thơ của ông qua truyền khẩu đă trở thành sản phẩm của công chúng, đọc lên ai cũng bấm bụng cười, điển h́nh nhất là "Bắt giặc lái":
Giặc Mỹ leo thang đến Phú Tho
Na pan đốt cháy cả rừng co (cọ)
Sẵn sàng chiến đấu chị em bắn
Rớt trước tay ḿnh một dù đo (đỏ)
Bài này Bút Tre ứng khẩu vào chính đêm Mỹ bắn phá vào khu vực cơ quan ông ở Mai Thọ. Vẫn những địa danh quen thuộc là rừng Cọ, Phú Thọ, hay dù đỏ vào thơ ông bị mất dấu lại tăng tính ngộ nghĩnh, khiến sáng hôm sau chị em bấm nhau cười nghiêng ngả, một bo mười, mười bo trăm, một nhà thơ dân gian nào đó nhanh trí rút ngắn bài thơ lại để tăng thêm hiệu quả tiếng cười:
Chị em phụ nữ tài thay
Bắn tàu bay Mỹ rớt ngay tay ḿnh
Sức công phá và "điểm huyệt" c̣n tăng gấp bội khi một Bút Tre nào đấy, bạo miệng sửa lại chữ “tay” trong bài thơ thành chữ “cửa” để câu thơ mang tính lấp lửng hai mặt như bà chúa thơ Nôm từng làm:
Chị em phụ nữ tài thay
Bắn tàu bay Mỹ rơi ngay cửa ḿnh
Vừa là cửa ngôi nhà ḿnh đang ở, cũng là cửa đó trong thơ Hồ Xuân Hương, cửa do tạo hoá tạo ra trên cơ thể chị em mà bất cứ người đàn ông nào từng làm chồng, làm cha cũng phải qua.
Giai thoại c̣n kể rằng, thời là trưởng ty văn hóa, phát hiện ra anh Nguyễn Lộc, xă viên hợp tác xă Mông Nguyên, có năng khiếu đặc biệt về khảo cổ, ông ra quyết định chuyển về làm cán bộ, trong khi anh Lộc c̣n chần chừ, ông phê luôn hai câu thơ động viên:
Chú về công tác bảo tàng
Cũng là nhiệm vụ cách màng giao cho
Đọc xong, ông Lộc vui vẻ từ gia xóm thôn lên đường. Sau này khi kể lại bước ngoặt lớn lao của cuộc đời ḿnh, anh không quên đọc lại hai câu Bút Tre viết, khiến ai cũng cười lăn cười ḅ. Có người c̣n đùa: “May ông ấy viết là bảo tàng đấy, nếu là bảo tồn, th́ khó gieo vần lắm, mà đời chú xem ra cũng thoát khỏi cảnh nắng cực rồi, như thơ Hồ Xuân Hưng tả đấy”
Đang cơn Nắng cực chửa mưa tè,
Rủ chị em ra tát nước khe
Giữa đồng ruộng xóm thôn nơi hợp tác xă cần phải rủ chị em ra tát nước khe theo kiểu "nhất âm bất sinh, nhất dương bất trưởng" chứ giữa làng bảo tồn (nói lái ) thiếu ǵ gầu "ba góc vụm" mà lo.
Ngồi buồn nhớ ông, người viết bài này chỉ c̣n biết mượn thơ Nguyễn Công Trứ nhại cho vui, cũng là khép lại bài viết nhỏ này:
Ngồi buồn lại nhớ Bút Tre
Khi vui muốn khóc buồn ghê lại cười
Kiếp sau xin cứ làm người
Làm Bút Tre đứng giữa trời… Phú Tho (!)
Giữa vùng đồi núi rừng co
Chị em ta bắn dù do lộn nhào
Hà Nội những ngày bi giam nhân hội nghị Apec
22-11-2006
Trần Khải Thanh Thuỷ
1 Theo tài-liệu công-bố trong nước th́ đây là « một trong những Vịnh lớn của thế giới, có diện tích khoảng 126.250 km2 (36.000 hải lư vuông), chiều ngang nơi rộng nhất khoảng 310 km (176 hải lư), nơi hẹp nhất ở cửa Vịnh rộng khoảng 207,4 km (112 hải lư) »
Bờ Vịnh Bắc Bộ thuộc 10 tỉnh, thành phố của Việt Nam với tổng chiều dài khoảng 763 km và bờ biển thuộc 2 tỉnh Quảng Tây, Hải Nam của Trung Quốc với tổng chiều dài khoảng 695 km. Vịnh có hai cửa: eo biển Quỳnh Châu nằm giữa bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam với bề rộng khoảng 35,2 km (19 hải lư) và cửa chính của Vịnh từ đảo Cồn Cỏ (Việt Nam) tới đảo Hải Nam (Trung Quốc) rộng khoảng 207,4 km (112 hải lư).
Phần Vịnh phía Việt Nam có khoảng 2.300 đảo, đá ven bờ, đặc biệt có đảo Bạch Long Vĩ nằm cách đất liền Việt Nam khoảng 110 km, cách đảo Hải Nam Trung Quốc khoảng 130 km. Phía Trung Quốc có một số ít đảo nhỏ ở phía Đông Bắc Vịnh như đảo Vị Châu, Tà Dương.
Vịnh Bắc Bộ có vị trí chiến lược quan trọng đối với Việt Nam và Trung Quốc cả về kinh tế lẫn quốc pḥng, an ninh. Vịnh là nơi chứa đựng nhiều tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là hải sản và dầu khí.
Trong Vịnh có nhiều ngư trường lớn, cung cấp nguồn hải sản quan trọng cho đời sống của nhân dân hai nước. Các dự báo cho thấy đáy biển và ḷng đất dưới đáy của Vịnh có tiềm năng về dầu mỏ và khí đốt. Vịnh là cửa ngơ giao lưu từ lâu đời của Việt Nam ra thế giới, có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp phát triển kinh tế, thương mại quốc tế cũng như quốc pḥng an ninh của nước ta. »