Đối Thoại Online phỏng vấn LS Lê Thị Công Nhân
Thưa quư thính giả, sau khi đại họi APEC bế mạc, tuân hành chỉ thị của Bộ Chính trị đảng CS Việt Nam, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đă kư chỉ thị số 37 vào ngày 29/11/2006 qui định một số biện pháp tăng cường lănh đạo và quản lư báo chí. Chỉ thị 37 có hai mục đích rơ rệt là quản lư truyền thông bà báo chí thuộc viện nhà nước vốn đă chặc chẽ lại càng chặc chẽ hơn và nhất quyết ngăn cấm báo tư nhân.
Đối Thoại Online rất hân hạnh được luật sư trẻ Lê Thị Công Nhân tại Hà Nội, phát ngôn nhân của Đảng Thăng Tiến Việt Nam cho biết một số vấn đề liên quan đến chỉ thị 37 của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Mời quư thính giả theo dơi phần trao đổi của chúng tôi sau đây:
Duy Khang: Thưa luật sư, như luật sư đă biết, theo chỉ thị của Bộ Chính trị thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đă kư chỉ thị số 37 vào ngày 29/11/2006 về báo chí, qui định sự kiểm soát chặt chẽ truyền thông và báo chí, cũng như cương quyết không chấp nhận báo tư nhân. Như vậy th́ phát xuất từ thực tế như thế nào mà Bộ Chính trị và thủ tướng Dũng đă quyết định như vậy, thưa luật sư?
Ls Lê Thị Công Nhân: Xin chào anh Duy Khang. Theo tôi th́ trong bối cảnh nào mà nhà cầm quyền Việt Nam đưa ra một chỉ thị đang gây xôn xao dư luận như vậy. Như chúng ta đều biết th́ thông báo số 41 của Bộ Chính trị đă được ra đời vào ngày 11/10/2006, tức là trước hội nghị APEC một thời gian tương đối dài là khoảng 1 tháng rưỡi. Sau khi hội nghị APEC kết thúc cũng như Việt Nam đă được kết nạp vào WTO th́ nhà cầm quyền Việt Nam mà cụ thể là chính phủ đă cho ra chỉ thị số 37 TTg ngày 29/11. Trong chỉ thị này th́ có hai nội dung chính, đó là tăng cường quản lư triệt để tất cả các báo chí ở trong nước thuộc quyền quản lư của nhà nước. Thứ hai là một lần nữa nhà cầm quyền Việt Nam thể hiện môt thái độ ấu trỉ và ngoan cố, nhứt quyết không cho có báo chí tư nhân tại Việt Nam .
Tôi nghĩ rằng việc này hoàn toàn không phải là vô t́nh mà đều đă được chuẩn bị vào sắp xếp kế hoạch cũng như thời điểm để công bố việc làm này.
Như tôi đă nói, chỉ thị 37 th́ hoàn toàn ra đời trên cơ sở thông báo 41 của Bộ Chính trị mà thôi. Tại sao khi có thông báo này th́ chỉ thị 37 chưa ra đời ngay? Có lẽ nhà cầm quyền Việt Nam người ta muốn cho sự kiện APEC cũng như việc Việt Nam gia nhập WTO được thuận lợi. Ngay sau đó, như tất cả chúng ta đều biết th́ Việt Nam đă gia nhập WTO và thế giới rất quan tâm về vấn đề các giao dịch thương mại, xuất nhập khẩu các ấn phẩm, báo chí cũng như văn học và những sản phẩm liên quan đến văn hóa – gọi tắt là văn hóa phẩm.
Trong quá tŕnh đàm phán WTO, như chúng ta đă biết trong thông báo của Bộ Ngoại giao về nội dung chính đàm phán gia nhập WTO th́ cũng đă nói rằng Việt Nam không cho tự do về báo chí, nhưng có lẽ v́ nhà cầm quyền Việt Nam người ta vẫn cảm thấy có một cái ǵ đó bất an, rằng những cam kết đó chưa phải là triệt để lắm, cho nên nó cũng chỉ là mới quốc tế thôi, cho nên người ta cho ra đời chỉ thị 37 này nhằm đối phó phần lớn với mặt trận báo chí ở trong nước mà hiện nay đang có một khuynh hướng, theo tôi là không thể đảo ngược, đó là tự do hóa về báo chí.
Duy Khang: Với tư cách là một luật sư th́ luật sư đánh giá chỉ thị 37 như thế nào về mục đích cũng như về phương diện pháp lư?
Ls Lê Thị Công Nhân: Cảm ơn anh, đây quả thật là một câu hỏi rất là hay. Trước mặt tôi là hiến pháp nước CHXHCNVN năm 1992 hiện nay có hiệu lực thực thi. Có thể nói ngắn gọn một câu thôi là chị thị 37 này là một sự thể hiện sự độc tài tuyệt đối của đảng CSVN trên hệ thống bộ máy nhà nước của Việt Nam hiện nay, đặc biệt là hệ thống hành pháp (tức chính phủ) cũng như hệ thống tư pháp. Gần như tất cả các hệ thống này, kể cả lập pháp, quốc hội đều nằm hoàn toàn dưới quyền cai trị của đảng CSVN mà cơ quan có quyền lực nhất chính là Bộ Chính trị. Tôi nói vậy là v́ sao? Như chúng ta đều biết, quốc hội trong pháp luật th́ được qui định là một cơ quan quyền lực cao nhất của tất cả các quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam th́ cũng có một qui định như vậy, và hiến pháp là luật cao nhất trong tất cả các luật, c̣n gọi là luật gốc hoặc luật mẹ trong hệ thống pháp luật của một quốc gia. Và tất cả văn bản luật khác đều nằm dưới hiến pháp và đều phải tuân thủ hiến pháp. Nếu nó trái với hiến pháp th́ người ta gọi đó là vi hiến và cần phải được loại bỏ ngay.
Là một luật sư th́ tôi xin khẳng định với những hiểu biết cá nhân của ḿnh rằng chỉ thị 37-TTG ngày 29/11/2006 là hoàn toàn vi hiến. Nói vậy là v́ sao? Tôi xin trích dẫn điều 33 hiến pháp Việt Nam năm 1992:
Điều 33
Nhà nước phát triển công tác thông tin, báo chí, phát thanh, truyền h́nh, điện ảnh, xuất bản, thư viện và các phương tiện thông tin đại chúng khác. Nghiêm cấm những hoạt động văn hoá, thông tin làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam.
Vậy th́ điều 33 này có lẽ là cũng không cần ǵ phải phân tích nhiều hay bàn căi, nó đă nói rất rơ. Đó là nhà nước có nghĩa vụ là phải phát triển báo chí và thông tin. Bên cạnh đó nhà nước có thẩm quyền cấm những hoạt động văn hóa và thông tin làm tổn hại đến lợi ích quốc gia và những vấn đề liên quan đến đạo đức v.v… Đó không có nghĩa rằng là nhà nước cấm hoặc không cho phép báo chí tư nhân phát triển.
Ở đây chúng ta phải hiểu nguyên tắc của pháp luật là phía cơ quan công quyền th́ chỉ được thực thi những ǵ nằm trong sự cho phép mà thôi. C̣n công dân cũng như với những tổ chức tư nhân th́ người ta được quyền làm tất cả những ǵ không cấm.
Vậy th́ điều 33 của hiến pháp đă nói rất rơ trách nhiệm của nhà nước là phải phát triển thông tin báo chí, truyền thanh và tất cả những loại h́nh báo chí khác. Tôi xin được trích dẫn một điều nói rơ hơn để cho thấy tính vi hiến của chị thị số 37. Đó chính là điều 60, 69.
Điều 60 th́ liên quan ở phương diện rộng hơn một chút. Điều 60 hiến pháp Việt Nam qui định:
Điều 60
Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lư hoá sản xuất, sáng tác, phê b́nh văn học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hoá khác. Nhà nước bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp.
Ở đây chúng ta quan tâm tới khía cạnh sáng tác, phê b́nh văn học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hóa khác. Ở một khía cạnh, báo chí cũng thuộc lănh vực của hoạt động văn hóa.
Tiếp theo tôi xin trích dẫn điều 69. Điều 69 hiến pháp Việt Nam là một điều khoảng rất ngắn gọn và qui định rất cụ thể và đầy đủ những quyền liên quan đến báo chí của công dân mà cụ thể là tư nhân. Điều 69 ghi:
Điều 69
Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu t́nh theo quy định của pháp luật.
Vậy mà trong chỉ thị 37CT-TTg vừa mới được ra đời th́ lại có một điều khoản không thể nào chấp nhận được và hoàn toàn vi phạm pháp luật, vi phạm ở đây là vi phạm bộ luật mẹ của cả quốc gia – đó là hiến pháp.
Tại điểm D điều 2 của chỉ thị 37 ghi rằng:
Kiên quyết không để tư nhân hóa báo chí dưới mọi h́nh thức và không để bất cứ tổ chức hoặc cá nhân nào lợi dụng, chi phối báo chí để phục vụ lợi ích riêng, gây tổn hại lợi ích đất nước.
Như thế nào là lợi dụng báo chí để phục vụ lợi ích riêng hoặc gây tổn hại cho đất nước th́ thiết nghĩ việc làm này của Bộ Văn hóa thông tin hoặc của những cơ quan an ninh bây giờ người ta làm bây giờ, theo tôi th́ đă rất triệt để và chặt chẽ, phục vụ cho lợi ích của đất nước cũng như đảng CSVN rồi.
Vậy ở đây vấn đề là cương quyết không để tư nhân hóa báo chí dưới mọi h́nh thức. Điều này đă xâm phạm vào quyền được tự do báo chí của tất cả công dân Việt Nam cũng như của mỗi một công dân Việt Nam – là một quyền đă được hiến định bởi điều 69 của hiến pháp Việt Nam .
Bên cạnh đó th́ tôi cũng xin được trích dẫn Công ước về các quyền dân sự và chính trị của Liên Hiệp Quốc năm 1966 mà Việt Nam đă là thành viên tham gia vào ngày 24/9/1982. Về nguyên tắc th́ trong hệ thống pháp luật nội địa của một đất nước th́ không ai có quyền ép buộc một quốc gia tham gia một điều ước quốc tế, nhưng nguyên tắc vàng của luật quốc tế đó là khi mà anh đă tham gia th́ anh phải tuân thủ. Vấn đề là Việt Nam đă tham gia công ước của LHQ về các quyền dân sự cũng như quyền chính trị và luật Việt Nam cũng qui định rất rơ nếu như giữa luật quốc nội và điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia và kư kết có những sự mâu thuẩn hoặc trái ngược th́ ưu tiên áp dụng theo nguyên tắc là luật quốc tế áp dụng trước hết và trên hết. Chính v́ vậy tôi xin được trích dẫn điều 19 của Công ước LHQ về các quyền dân sự và chính trị năm 1966:
Điều 19:
1. Mọi người đều có quyền giữ vững quan niệm mà không bị ai can thiệp. 2. Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do t́m kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ư kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới h́nh thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia. 3. Việc hành sử quyền tự do phát biểu quan điểm (ghi ở khoản 2 nói trên) đ̣i hỏi đương sự phải có những bổn phận và trách nhiệm đặc biệt. Quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật v́ nhu cầu: a. Tôn trọng những quyền tự do và thanh danh của người khác. b. Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng hay đạo lư.Như những điều vừa rồi th́ chúng ta đều thấy rơ chỉ thị 37 đă vi phạm nghiêm trọng không những luật của chính nhà cầm quyền Việt Nam ban hành mà cả luật quốc tế. Ở đây chúng ta phải phân biệt hai khía cạnh khi chúng ta nh́n vào một điều luật. Thứ nhất là việc ban hành một văn bản pháp luật hoặc điều luật như vậy nó có đúng tŕnh tự tư pháp, luật pháp của một quốc gia hay không, và đă được kiểm tra hay chưa. Và trong mối quan hệ của hệ thống văn bản pháp luật của một quốc gia th́ nó cũng có quan hệ với pháp luật quốc tế, ở đây cụ thể là những điều ước quốc tế, là tên gọi chung của công ước quốc tế hoặc là những thỏa thuận quốc tế, mà quốc gia đó đă tham gia. Cái thứ hai chúng ta mới quan tâm đến, đó là nội dung của điều luật là như thế nào.
Cho nên ở đây, ngay từ vấn đề h́nh thức của văn bản pháp luật này cũng như tŕnh tự của mối quan hệ pháp lư giữa các văn bản khác th́ chỉ thị 37 này đă thể hiện sự sai lầm nghiêm trọng của nhà cầm quyền Việt Nam là nó đă vi hiến, tức là vi phạm chính pháp luật của nội địa Việt Nam và vi phạm điều ước quốc tế mà Việt Nam đă tham gia.
Câu hỏi này thuần túy mang tính chất pháp lư cho nên tôi trả lời có phần khô khan, mong quư vị thông cảm.
Duy Khang: Xin luật sư cho biết ảnh hưởng của chỉ thị 37 đối với báo chí và truyền thông thuộc viện nhà nước quản lư như thế nào?
Ls Lê Thị Công Nhân: Hiện giờ chúng ta cũng đă thấy rằng nó đă gây những phản ứng hết sức mạnh mẽ từ báo giới, đây là cả báo giới ở trong nước cũng như giới làm báo của quốc tế đang có mặt tại Việt Nam và cũng đă gây những phản ứng không phải nhỏ đối với báo giới quốc tế đang có mặt tại Việt Nam.
Cá nhân tôi th́ cho rằng quyền tự do thông tin và tự do ngôn luận là quyền đầu tiên của nhân quyền là cũng là quyền có chức năng như một phương tiện để thực hiện những nhân quyền khác. Vậy mà một chỉ thị với nội dung như vậy th́ từ trước tới nay chúng ta đều biết hơn 600 tờ báo của Việt Nam vẫn đă và đang nằm dưới một tên gọi là “quốc doanh”, tức là sự kiểm soát của nhà nước là tuyệt đối. Tôi cũng thấy khó hiểu v́ nếu tôi là nhà cầm quyền Việt Nam th́ không cần thiết phải cho ra đời thêm một chỉ thị 37 như thế này làm ǵ. Bởi v́ hiện tại, như chúng ta đă biết ở tại Việt Nam cũng làm ǵ đă có báo chí tư nhân. Nhưng có lẽ là chỉ thị này đă được ra đời trong một bối cảnh việc Việt Nam gia nhập WTO đă xong và người ta bắt đầu có những hoạt động thực tế, những giao dịch thực tế đối với thế giới về khía cạnh thương mại mà trong đó những giao dịch thương mại về văn hóa phẩm mà trong đó báo chí là một phần lớn.
Tôi nghĩ rằng chỉ thị 37 này là một sự bất công rất lớn đối với báo giới Việt Nam . Báo giới Việt Nam trong thời gian qua chúng ta cũng phải ghi nhận là họ đă có những đóng góp lớn đối với sự phát triển của đất nước cũng như đóng góp vào một công cuộc mà trước hết là đă chỉ ra những điều xấu, những điều sai của các cơ quan công quyền, trong việc chống tham nhũng, chống tiêu cực của bộ máy hành chánh nhà nước. Và hơi thở tự do th́ đang được thổi vào rộng khắp báo giới của Việt Nam . Mặc dù chịu sự quản lư gần như tuyệt đối của nhà nước nhưng khuynh hướng đó trong khoảng 5 năm trở lại đây th́ đă mang đến niềm lạc quan tích cực cho báo giới.
Và tôi nghĩ rằng chỉ thị này giống như – không phải là một gáo nước lạnh – mà là một sô nước lạnh tạt vào mặt của báo giới Việt Nam . Khi có rất nhiều thậm chí c̣n đang nghĩ đến việc cổ phần hóa các tờ báo hoặc tự ḿnh cho ra đời những tờ báo riêng v.v…
Người ta nói đến sự bất công là ở chỗ nếu như những tờ báo hiện đang được nhập khẩu một cách chính ngạch vào Việt Nam th́ đa phần chúng ta đều biết, đều là của những tập đoàn truyền thông tư nhân hoặc hoặc của những hăng thông tấn tư nhân. Vậy th́ tại sao báo chí tư nhân của nước ngoài, người ta có một thị trường rất lớn tại Việt Nam như vậy, người ta cũng có một cơ hội rất lớn để phát triển nghề nghiệp, phát triển chức năng của người ta th́ chỉ thị 37 này lại đập bẹp tất cả những điều đó đối với báo giới của nội địa Việt Nam.
Việt Nam có gần 9,000 nhà báo làm cho hơn 600 tờ báo. Vậy th́ bao giờ báo giới Việt Nam mới có một sự tự do phát triển, sáng tạo và có một phong cách cũng như một bản lĩnh, một tŕnh độ báo chí tương đương với khu vực ĐNÁ thôi, chưa nói đến thế giới. Điều này sẽ gây nên một sự thiệt tḥi rất lớn cho báo giới Việt Nam . Cá nhân tôi cho rằng những nhà báo của Việt Nam không phải người ta không có khả năng để có thể học tập hoặc phát triển năng lực của ḿnh để có thể phấn đấu phát triển ngang hàng với các nhà báo ở tŕnh độ quốc tế.
Chỉ thị này, theo tôi, nó sẽ làm lụi tàn đi rất nhiều những ư tưởng hoặc những niềm mong muốn phát triển và sáng tạo của báo giới Việt Nam .
Cái này là một ảnh hưởng mà tôi muốn nhấn mạnh là trước tiên nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đối với báo giới quốc nội đang hành nghề dưới qui định của pháp luật CSVN hiện nay.
Duy Khang: Theo sự t́m hiểu của chúng tôi th́ hiện nay đang có 3 tờ báo tư nhân. Thứ nhất là tờ Tự Do Ngôn Luận do linh mục Chân Tín làm Tổng biên tập, tờ Tự Do Dân Chủ do nhà văn Hoàng Tiến làm Tổng Biên Tập, và tờ Tổ Quốc có sự hiện diện của tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang. Thưa luật sư, những tờ báo này chịu ảnh hưởng của chỉ thị 37 như thế nào ạ?
Ls Lê Thị Công Nhân: Về khía cạnh pháp lư th́ như thế này. Ba tờ báo mà anh vừa nêu tên là những tờ báo có thể nói là đặc biệt nhất của đất nước Việt Nam hiện nay. Đặc biệt là bởi v́ nó không được nhà cầm quyền Việt Nam thừa nhận. Chúng ta cứ nói thẳng ra là “báo chui” – vâng, nó là một tờ báo chui. Ở đây tôi chưa xét về nội dung mà là h́nh thức thôi, mà tại sao nó lại là báo chui. Là bởi v́ những thủ tục để có được một giấy phép do Bộ Văn hóa Thông tin ban hành th́ những tờ báo này chắc chắn là sẽ không bao giờ có được giấy phép đó.
Về nội dung th́ chắc chúng ta khỏi phải bàn. Những tờ báo này đều là những tờ báo lương tâm, đều là những tờ báo có tính chất từ thiện, không hề v́ một lợi nhuận ǵ cả và đều có một nội dung chung, đó là phát biểu chính kiến và lương tâm của những người có trách nhiệm với đất nước, Đang nh́n thấy đất nước lâm nguy trước nạn độc tài của đảng CSVN và họ đ̣i hỏi, yêu cầu và họ đấu tranh cho một nền dân chủ đa nguyên tại Việt Nam.
Chỉ thị 37 này ra đời sau khi 3 tờ báo đó đă được phát hành trong nước mà cụ thể có một tờ phát hành là báo giấy là Tự Do Ngôn Luận.
Đến thời điểm này với một chỉ thị như vậy, tôi đang nói thuần túy về mặt pháp lư thôi th́ có lẽ cũng không ảnh hưởng ǵ nhiều đến 3 tờ báo đó. Bởi v́ sao? Trước khi có chỉ thị này, hay sau khi có th́ 3 tờ báo này – thời điểm chúng ta đang tṛ chuyện th́ vẫn là 3 tờ báo không được nhà nước thừa nhận và là những tờ báo chui.
Nhưng thực tế với một tuyên bố rất ngoan cố như vậy của nhà cầm quyền Việt Nam trong chỉ thị 37 th́ chắc chắn trong thực tế 3 tờ báo mà chúng ta vừa nêu sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ. Chắc chắn là những người đứng tên trong ban biên tập sẽ phải chịu những sóng gió đầu tiên.
Bởi v́ 600 tờ báo của Việt Nam có những phát triển rất lớn trong khoảng 5-6 năm gần đây nhưng tuyệt đối những tờ báo này gần như không đả động ǵ đến vấn đề yêu cầu có một nền dân chủ tại Việt Nam. Thường là những tờ báo chuyên ngành, hoặc về văn hóa, xă hội, vui chơi giải trí hoặc kỹ thuật thuần túy v.v… Tất nhiên thỉnh thoảng cũng có một vài bài mang tính chính trị - Nhưng tôi xin nhắc lại là chỉ mang tính chính trị nói chung, chớ chưa có một bài viết hoặc một tờ báo nào dám đưa ra một yêu cầu là đất nước cần phải có dân chủ và đa nguyên.
Lạc quan th́ tôi vẫn lạc quan bởi v́ như tôi đă nói, 3 tờ báo này có trước, và sau chỉ thị 37 th́ vẫn là những tờ báo không được công nhận hợp pháp. Nhưng lo lắng một chút th́ cũng có. Bởi v́ trên cơ sở chị thị 37 này th́ người ta sẽ ra tiếp những nghị định để pháp hiệu hóa chỉ thị đó.
Và trên cơ sở đó mà những cơ quan bảo vệ cho nền độc tài của đảng CSVN, người ta sẽ làm những việc để đàn áp 3 tờ báo này. Riêng cá nhân tôi th́ tôi lại nghĩ đến một khía cạnh hơi khác một chút, là chúng ta chưa có được những việc làm đàn áp thực tế từ khi chỉ thị 37 này ra đời. Bởi v́ đến hôm nay th́ nó chỉ có được chưa tới một tuần. Nhưng sức phản ứng của thế giới đă thể hiện.
Chính nhà cầm quyền Việt Nam đă giơ xấu bộ mặt của họ cho thế giới xem mà chẳng cần những người đấu tranh dân chủ hoặc phong trào đấu tranh dân chủ trong quốc nội cũng như ở hải ngoại người ta phải lên tiếng nhiều về chỉ thị này.
Chúng ta theo dơi báo chí trong nước trong những ngày qua, nhất là báo chí điện tử th́ chúng ta thấy rằng họ đă phản ứng hết sức dữ dội. Nhưng chỉ có điều là mức độ công khai hay chính thức th́ chưa được nhiều. Chúng ta phân biệt h́nh thức cũng như mức độ của sự phản ứng. Mức độ, theo tôi th́ hết sức kinh khủng chỉ có điều sống trong quốc nội này th́ lời ăn tiếng nói phải hết sức cẩn trọng thôi.
Tôi cảm thấy đây, xét ở một gốc độ nào đó có phần lạc quan và mỉa mai v́ nó như là một món quà mà đảng CSVN tặng cho phong trào đấu tranh dân chủ Việt Nam . Một bằng chứng hết sức sống động chính là chỉ thị 37 này cho thấy việc nhà cầm quyền Việt Nam hết sức ngoan cố để ôm lấy, giữ chặc lấy quyền quản lư thông tin. Chỉ cho biết những ǵ mà đảng CS muốn cho người dân biết mà thôi – và cũng không cần ǵ nhiều. Một sự phản ứng quá gay gắt và mănh liệt hiện nay đối với phong trào dân chủ trong nước. Chính việc làm này của nhà cầm quyền CSVN đă vô t́nh đẩy báo giới – hợp pháp và công khai – tại Việt Nam hiện nay đứng về phe dân chủ, theo một phương diện nào đó, cho dù cá nhân một vài người chưa chắc là đă muốn lắm.
Việc làm này nó làm ảnh hưởng nghiêm trọng và trực tiếp đến quyền lợi của những người làm báo, cũng như những người đang hết sức giàu có mà có ư tưởng muốn có những tờ báo riêng của ḿnh.
Nói chung là tôi không cảm thấy quá bi quan hay tiêu cực về chỉ thị 37 này.
Duy Khang: Theo luật sự th́ phong trào dân chủ Việt Nam trong nước đă có phản ứng nào về chỉ thị 37 chưa ạ?
Ls Lê Thị Công Nhân: Trước đây, cũng như hiện nay th́ phong trào đấu tranh dân chủ chúng tôi luôn cố gắng hết sức ḿnh để có thể xóa bỏ dần dần sự bưng bít thông tin đă được nhà cầm quyền CSCN tạo dựng trong suốt bao năm dài đằng đẳng vừa qua. Việc bưng bít thông tin đó đă làm cho dân tộc chúng ta bị lạc hậu, bị ấu trỉ đi rất nhiều bởi v́ không có những thông tin đa chiều và đa dạng để có thể phát triển được sự hiểu biết cũng như tŕnh độ kiến thức và trí óc của ḿnh.
Như tôi đă nói, việc tố cáo những việc làm sai trái, những việc đàn áp phong trào đấu tranh trong nước từ phía nhà cầm quyền Việt Nam th́ chúng tôi làm một cách trường kỳ và thường xuyên. Chỉ thị 37 này, tự nhà cầm quyền Việt Nam , như tôi đă nói, giơ mặt xấu của họ cho cả thế giới biết.
Phong trào đấu tranh dân chủ trong nước cũng không cần phải làm ǵ nhiều để cho thế giới người ta tự phản ứng về việc này. Mà trước hết là báo giới quốc nội người ta sẽ phản ứng.
Đến thời điểm hiện nay th́ các tổ chức cũng như những cá nhân đấu tranh công khai trong phong trào đấu tranh dân chủ Việt Nam, ví dụ như Liêm Minh Dân Chủ Nhân Quyền Việt Nam, Khối 8406, các đảng chính trị phi cộng sản tại Việt Nam như Đảng Dân Chủ Thế Kỷ 21, Đảng Dân Chủ Nhân Dân và Đảng Thăng Tiến mà tôi hiện là người phát ngôn. Chúng tôi chưa có một văn bản chính thức nào để thể hiện phản ứng của ḿnh về chỉ thị 37 này.
Về cá nhân của từng người th́ chúng tôi đều chưa đưa ra một phát ngôn chính thức nào để phản ứng lại chỉ thị 37 này, có chăng là những cuộc phỏng vấn. Thái độ đó cũng không có ǵ là khó hiểu cả bởi v́ chúng tôi thiết nghĩ trong 4, 5 ngày vừa qua th́ cũng chưa cần có một phản ứng mạnh mẽ từ phía chúng tôi. Nó cũng giống như một thời gian “tạm nghỉ” để cho thế giới và báo giới quốc nội Việt Nam người ta phản ứng với chính quyền Việt Nam là đủ rồi.
Nhưng tất nhiên, trước mắt chúng ta cũng chưa biết điều ǵ có thể xảy đến và những mưu mẹo, những sự lương lẹo của nhà cầm quyền Việt Nam th́ nó đă thể hiện quá nhiều bằng chứng trong quá khứ rồi. Phong trào đấu tranh dân chủ sẽ luôn hết sức tỉnh táo và cảnh giác để chuẩn bị cho những trường hợp xấu có thể xảy ra.
Mặc dầu vậy nhưng chúng tôi cũng luôn nh́n nhận một sự việc hoặc một hiện tượng nào đó trong một bối cảnh tổng thể - tức là đối chiếu với trong nước cũng như nh́n ra sự quan hệ với chính trường quốc tế để có thể nhận biết và có thể rút ra được những kết luận, đánh giá sáng suốt để có những hành xử phù hợp và đúng lúc.
Cho đến thời điểm này cá nhân tôi cũng nghĩ là như vậy. Những cuộc phỏng vấn hoặc trả lời trên phương diện cá nhân th́ đă có nhiều, nhưng chưa có phản ứng chính thức nào bằng văn bản của phong trào đấu tranh dân chủ trong nước đối với chỉ thị. Bởi v́ chúng tôi muốn cho thế giới phản ứng trước đă rồi chúng tôi có nói sau th́ cũng không có ǵ là muộn.
Duy Khang: Chúng tôi, Duy Khang, xin thay mặt cho độc giả và thính giả của Đối Thoại Online xin cám ơn luật sư Lê Thị Công Nhân đă dành th́ giờ chia sẻ quan điểm của luật sư với chỉ thị 37 của thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng liên quan đến truyền thông, báo chí và ra báo tư nhân.
Trước khi dứt lời, luật sư có điều ǵ cần tŕnh bày thêm với độc giả và thính giả của Đối Thoại Online?
Ls Lê Thị Công Nhân: Tôi chỉ muốn nói một điều ngắn gọn là cuộc đấu tranh để giành tự do dân chủ cho Việt Nam chắc chắn sẽ c̣n dài và muôn vàn những khó khăn. Tôi mong rằng với sự quan tâm, sự hỗ trợ của cộng đồng người Việt tại hải ngoại và trước tiên chính là vấn đề thông tin báo chí và hỗ trợ về tinh thần sẽ góp một phần lớn, một phần cực kỳ quan trọng để có thể truyền bá, phổ biến về cuộc đấu tranh dân chủ cho toàn thể người dân ở trong nước biết.
Cuộc phỏng vấn hôm nay th́ cũng liên quan trực tiếp đến những công việc mà chúng tôi đang làm trước tiên, và cũng gần như là một nhiệm vụ. Tôi nghĩ rằng thời điểm này là duy nhất để Việt Nam có một nền dân chủ, đó là chúng ta phải phá bỏ được sự bưng bít thông tin và độc quyền về tự do ngôn luận, báo chí của nhà cầm quyền Việt Nam.
Chỉ khi nào chúng ta làm được việc đó th́ đa số hơn 80 triệu dân Việt Nam mới có thể biết một cách thật sự về phong trào đấu tranh dân chủ này một cách đầy đủ nhất và từ đó người ta sẽ có những hiểu biết và sự quan tâm đúng đắn dành cho phong trào này.
Tôi cũng mong lực lượng người Việt của chúng ta tại hải ngoại có cuộc sống hết sức thoải mái và tự do, có những phương tiện về mặt kỹ thuật rất tốt và những tŕnh độ và những kỹ năng về thông tin, báo chí tốt như vậy th́ chúng ta cũng sẽ góp phần liên lạc và thông tin với báo giới quốc tế cũng như các tổ chức quốc tế, chính phủ nước ngoài về hiện trạng đấu tranh dân chủ tại Việt Nam một cách kịp thời và đầy đủ bằng chính báo chí, cụ thể là báo chí trên mạng như thế này.
Như cá nhân tôi đây, tôi biết đến phong trào đấu tranh dân chủ trong nước một phần lớn là cũng qua mạng internet. Và tôi mong rằng ngày càng có nhiều những tờ báo hay, tốt và trung thực để phổ biến được nhiều hơn, giúp nâng cao dân trí của người Việt Nam .
Cá nhân tôi rất thích một câu, đó là “trong sự dối trá, chúng ta chỉ có một điều duy nhất – đó là dốt nát. Và sự thật, dù có phủ phàng đến mấy th́ cũng đáng được trân trọng”.
Tôi xin được cám ơn báo Đối Thoại đă dành cho tôi thời gian để tâm sự và tṛ chuyện với quư vị và xin hẹn gặp lại vào dịp khác.
Duy Khang: Quư thính giả đang theo dơi cuộc trao đổi của chúng tôi với luật sư Lê Thị Công Nhân tại Hà Nội và là phát ngôn nhân của Đảng Thăng Tiến Việt Nam liên quan đến vấn đề chỉ thị 37/2006/CT-TTg của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Xin hẹn gặp lại quư thính giả.
__._,_.___